Tác giả Trần Mai Hạnh trong buổi hội thảo
Tiểu thuyết BIÊN BẢN CHIẾN TRANH của
Trần Mai Hạnh
Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2014
Vũ Nho
Tiểu thuyết BIÊN BẢN CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75 của Trần
Mai Hạnh là một cuốn sách công phu, tâm huyết. Trước hết, đây là tiểu thuyết tư
liệu nên có thể nói nguồn tư liệu phong phú và sống động là một đảm bảo cơ bản cho thành công của tác giả. Là
người trực tiếp tham gia chiến dịch, lại công tác ở cơ quan thông tấn có nhiều
tư liệu tham khảo về đối phương, cùng
với 6 nguồn tư liệu ( Biên bản trả lời phỏng vấn và tự thú của các nhân vật chủ
chốt, Biên bản lời khai và tường trình của nhiều tướng lĩnh bị bắt hoặc ra
trình diện, Những tài liệu nguyên bản của phía bên kia, Biên bản phỏng vấn của Viện nghiên cứu chiến lược Hoa kì với 27
nhân vật từng là lãnh đạo chủ chốt,…Báo, tạp chĩ Mĩ, các nước phương Tây và Sài
gòn; Những tư liệu của tác giả đã công bố), tác giả có một thuận lợi vô cùng to
lớn so với bất kì ai khi muốn dựng lại
trung thành những năm tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh ở Việt Nam và sự sụp
đổ của chính quyền Sài Gòn. Mặt khác giờ đây, đã có một độ lùi lịch sử cần
thiết để suy ngẫm và nhìn lại các sự
kiện. Cũng đã có nhiều hồi kí của một số nhân vật của phía bên này và bên kia
được công bố; tác giả có thêm cái nhìn toàn cục về cuộc chiến.
Tuy nhiên, tư liệu càng phong phú và đa dạng bao nhiêu thì vừa là thuận lợi, lại cũng là một khó khăn cho người viết bấy
nhiêu. Vấn đề là phải xuyên qua một núi tư liệu và sự kiện, chọn lọc những gì
cơ bản nhất, căn cốt nhất và kết nối, xâu chuỗi chúng lại để phục vụ cho ý
tưởng “ phác thảo toàn cục và chi tiết về toàn bộ quá trình diễn ra sự sụp đổ
cùng bộ mặt của hầu hết tướng lĩnh quân đội Sài Gòn và số phận những người cầm
đầu chính thể Sài Gòn trong những ngày tháng cuối cùng của chiến tranh”
(Lời tác giả). Vì vậy mà có thể nói tác giả đã dày công và thành công khi từ
những ngồn ngộn tư liệu xây dựng 19 chương sách với thời gian các tháng 1,2,3,4
của năm 1975, phản ánh khái quát và trung thực chân dung các tướng lĩnh và
chính khách của quân đội và chính thể Sài Gòn. Có thể về mức độ đậm nhạt về mỗi
con người khác nhau, nhưng tổng thể bức tranh khái quát khá sống động và chính
xác, phản ánh trung thành những gì mà
mọi người đã biết ít nhiều về các tướng lãnh và chính khách đó. Đặc biệt, các
nhân vật quan trọng như Nguyễn Văn Thiệu, Cao Văn Viên, Trần Văn Hương, Trần
Văn Đôn,…các tướng lĩnh của quân đoàn, quân khu như Ngô Quang Trưởng, Phạm Văn
Phú, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Khoa Nam,…
Tác giả cuốn sách muốn làm một “biên bản” chiến tranh
cho nên địa điểm và ngày tháng được đặc biệt chú ý. Những Huế, Pleiku, Đà Nẵng,
Nha Trang, Xuân Lộc, Sài gòn, Cần Thơ được gắn liền với các sự kiện quan
trọng trong quá trình thất bại của quân
đội Sài Gòn. Đặc biệt là các mốc ngày tháng. Các nhà viết sử có thể căn cứ vào
cuốn sách để viết chính xác lịch sử đương đại với các dấu mốc và chi tiết quan trọng. Ví dụ : 1 giờ sáng ngày 17 tháng ba, Nguyễn Khắc
Bình cho bắt 7 người chống đối và tuyên bố đập tan một âm mưu đảo chính; Đêm 27 tháng Ba, Thiệu lên
vô tuyến truyền hình “ ra mắt quốc dân
đồng bào, giải thích hiện tình đất nước”; ngày 29 tháng Ba 1975, ngày cuối cùng
của chế độ Sài Gòn ở Đà Nẵng; Tối 21
tháng Tư, Thiệu tuyên bố từ chức; 19 giờ
30 phút ngày 25 tháng 4, Thiệu rời dinh Độc Lập. Nguyễn Văn Thiệu đã rời khỏi
Sài Gòn bằng máy bay của Mỹ C118 bay từ Thái Lan sang, chứ không phải bằng
chuyên cơ Boeing 727…
Yếu tố thời gian không chỉ là ngày,
tháng, năm, mà còn cụ thể đến chi tiết sáng, trưa, chiều, tối, đêm. Không phải
là ít các ví dụ chi tiết đến tận giờ và phút. Ví dụ ở trang 16, 22, 38, 53, 65,
122, 124, 134, 166, 173, 193, 196, 201 ( ba thời điểm). 204, 205, 208, 209, 211, 252, 383,…
Trong sự sụp đổ từng mảng không thể cứu vãn được của quân đội
và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, tác giả đã dành tâm huyết để khắc họa hình
ảnh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, một người gian hùng với nhiều thủ đoạn, với
những lo lắng, cố gắng và tuyệt vọng. Ngay cả viên tướng quan trọng của Thiệu
là Ngô Quang Trưởng cũng “ không thể tin
Thiệu được. Thiệu là một kẻ gian hùng, ranh ma quỷ quyệt, luôn tạo ra khoảng
cách trong các quyết định của mình để rồi nói một đằng, làm một nẻo” (
trang 103). Người đọc có thể thấy nỗi ám ảnh của Thiệu khi đã chứng kiến cái
chết của anh em tổng thống Ngô Đình Diệm, vì vậy nên luôn sợ hãi đảo chính,
không tin bất kì ai, thường xuyên thay đổi chỗ ngủ. Những mâu thuẫn, những toan
tính và lúng túng trong xử lí tình hình sau khi mất Buôn Ma Thuột. Trong các
cuộc họp, Thiệu khi thì gằn giọng tức tối, lúc đập bàn; khi lại truy xét đến
cùng người đối thoại; khi gật gù tán thưởng người trình bày; có khi khôi hài; lúc lại tức giận chửi tay chân vô dụng, đòi
trừng phạt ngay lập tức để răn đe. Đối với
bản thân, Thiệu cực kì mê tín, có riêng một thầy tướng số cho mình, lại
còn sang tận Đài Bắc để thỉnh ý của Quỷ Cốc Tử. Và chính sự “mê tín” thái quá
này mà Thiệu đã bị các tướng lĩnh lợi dụng và lừa bịp. Đó là trường hợp của
tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, lo lót cho thầy tướng số trong nước, và Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, kì công mò sang
tận Đài Bắc để nhờ thầy tướng diễn màn kịch bịp Thiệu. “ Cứ xem sao của ông Toàn đây thì thấy rõ, hiện tuy lu mờ nhưng sắp tới
sẽ rực rỡ, tỏ vượng. Ông ta là con người siêu phàm hiếm có, không chỉ là trụ
cột của Việt Nam Cộng Hòa
trong nguy biến mà còn là cứu tinh của Đông Nam Á để thoạt khỏi cộng sản!”
( trang 249). Những chất vấn, đối thoại của Thiệu với Đại sứ Mác tin và
tướng Uâyen, sự lên gân của Thiệu; sự tính toán bí mật
chuyển của cải sang Đài Bắc; và cuối
cùng là việc đột ngột bỏ rơi những người thân cận nhất là Hoàng Đức Nhã và Đặng
văn Quang “ trong cảnh sống mái để tranh
giành một chỗ để ra đi, Nhã và Quang đã không ngớt lời chửi rủa Thiệu” (
trang 316). Bên cạnh nhưng hoạt động quân sự và chính trị, người đọc cũng còn
được biết ít nhiều về đời sống riêng của Thiệu. Việc tổ chức đám cưới cho con
gái là “ cú áp phe tiền bạc” khi gia đình Thiệu tổ chức đồng thời một lúc ở gần
một chục địa điểm trong Sài Gòn. Việc Thiệu trốn vợ đi Vũng Tàu chơi gái, rồi
có con riêng với một người, bị vợ ghen. Việc gia đình Thiệu bị các báo Sài Gòn
đồng loạt tố cáo tham nhũng trong khi chính Thiệu luôn rêu rao “ tham nhũng là
quốc nhục”…cho thấy bộ mặt thật của người đứng đầu chính thể Việt Nam Cộng Hòa.
Bên cạnh nhân vật chính là Nguyễn Văn
Thiệu, tác giả tiểu thuyết cũng đã vẽ chân dung những tướng lĩnh, các người
hùng của cuộc chiến tranh. Mỗi viên tướng mỗi vẻ. Kẻ thì thích phô trương quyền lực, quần áo mũ mãng chỉnh
tề, kè kè chiếc gậy chỉ huy cấp tướng dài ba tấc tám ( Cao Văn Viên, Vị đại
tướng đã định tự tử bằng viên thuốc độc
Xyanit nhưng lại đổi ý, đi di tản ). Kẻ thì đồi bại đểu giả và gian manh như
Nguyễn Văn Toàn. Tướng Phú, tướng Trưởng khi đứng trước các nhà báo thì hăng
máu “yêng hùng”, lên gân khoác lác, nhưng thực tế thì bất lực. Mồm nói quyết tử
thủ, nhưng chỉ lo lấy mạng sống của mình.
Trần Văn Đôn thì theo đánh giá của Trung tướng Ngô Quang Trưởng “ chỉ
giỏi nhảy đầm, khiêu vũ, chơi gái và chẳng biết cái mẹ gì về trận mạc”. Nhưng
đây là con người ham quyền lực và chức tước luôn “ trở cờ” giữa phái Trần Văn
Hương và Dương Văn Minh để mong có một chức vụ.
Trung tướng Cao Hảo Hớn thì có 50 chỗ cho nhân viên di tản, nhưng “ đem bán cả gói cho “con phe” , cầm gọn
50.000 đô la bỏ túi” ( trang 329). Rõ ràng nhất cho sự thất bại không cứu
vãn được là chính các tướng tá mạnh ai nấy chạy. Tướng chạy, tá chạy, không còn
ai để mà nhận lệnh chỉ huy. Đặng Văn Quang nói với Thiệu : “ Trình Tổng thống!
Như vậy tình trạng lại giống như Trung tướng Ngô Quang Trưởng ở quân khu I. 15
phút trước tôi gọi còn có sĩ quan tham mưu trả lời; 15 phút sau gọi điện ra, Bộ
tham mưu đã bỏ đi hết” ( trang 211). Đây có thể coi là trường hợp phổ biến của
đội quân tan rã. Với các gương mặt chính trị, thiết nghĩ mấy câu ngắn gọn này
đã nói lên đầy đủ “ Trên đống đổ nát của
tình hình quân sự đã trăm phần trăm tuyệt vọng, các phần tử chính trị cơ hội
nhảy ra như cào cào, châu chấu”. ( trang 343) Từ Trần Văn Đôn đến Nguyễn
Cao Kì, Nguyễn Hữu Có, Vũ Văn Mẫu, đến Phó tổng thống Trần Văn Hương cố trì
hoãn để được làm Tổng thống trọn một tuần…đều là những con rối đáng cười của
sân khấu chính trị.
Tác giả cố gắng trình bày một cách
khách quan quá trình tan rã và sụp
đổ của quân đội và chính thể Việt Nam
Cộng Hòa. Với kinh nghiệm làm báo dày
dặn, tác giả sử dụng giọng văn điềm đạm, bình tĩnh, chủ yếu để cho các sự kiện, các nhân vật tự nói lên. Chỉ khi
thật cần thiết mới có một đôi lời bình luận ngắn gọn. ( Ví dụ : “vừa nói được mấy câu Thiệu đã nổi đóa lên.
Thiệu hùng hổ nguyền rủa lịch sử. Thiệu cay cú mắng tớ chửi thầy. Thiệu than
thân trách phận. Thiệu vừa khóc vừa lên giọng thề bồi” ( trang 308). Cách
viết như vậy cũng là một thành công. Tuy nhiên, nếu có thể lược bớt nhưng chi
tiết về tình hình, về một vài sự kiện
trùng lặp; lược bớt các phúc trình; tăng hơn nữa việc phân tích tâm
trạng, tâm lí ; tăng hơn nữa việc miêu tả khái quát thì tiểu thuyết sẽ rút bớt
được số trang và tính hấp dẫn được tăng hơn đáng kể.
Hà Nội, 14 tháng Tư năm 2015
Chú
thích thêm:
Cuốn
sách hầu như không có lỗi vi tính. Chỉ có 5 lỗi chính tả ở trang 123, 311, 317,
377, 385.
Duy
nhất ở trang 275, khi nói về các báo Mĩ viết bình luận về diễn văn của tổng
thống G. Pho, nhưng tác giả không dẫn tên báo, ngày tháng.
CẢM TÁC
Trả lờiXóaKính tặng: PGS.TS Vũ Nho
Tiếng lòng bình luận, tuyệt vời thay!
"Biên bản chiến tranh"- tiểu thuyết hay
Trí tuệ, tâm hồn ngời ngưỡng mộ
Việt Nam thống nhất rợp cờ bay!
Cám ơn Lãng Du đã ghé trang, đọc và chia sẻ bằng thơ nữa!
XóaMột bài viết rất hay. Những lời thẩm bình chuyên sâu. Cảm ơn bác bác Vũ Nho đã chia sẻ trên trang này.
Trả lờiXóaHô đó có chiếu phim. Tôi cũng không biết bạn quan tâm văn xuôi nên không nhắn tin. Bài viết này tôi trình bày trong buổi CLB văn chương tổ chức.
Xóa