Vũ Nho chủ trang
Đồng quê trong thơ
Trần Đăng Khoa
Vũ Nho
Cánh
đồng làng là một mảnh hồn làng quê. Bên cạnh cây đa, luỹ tre, sân đình, cánh
đồng từ ngàn xưa đã gắn bó với cuộc sống lao động và trở thành một hình ảnh
thân thuộc của thơ ca.
-
Trên đồng cạn
Dưới
đồng sâu
Chồng
cày vợ cấy con trâu đi bừa.
-
Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng
mênh
mông bát ngát
Đứng
bên tê đồng ngó bên ni đồng
cũng
bát ngát mênh mông
Với
chú bé lớn lên ở nông thôn như Trần Đăng Khoa, cánh đồng không chỉ là hình ảnh
từ thơ ca, mà nó còn hết sức chân thực, hết sức cụ thể. Là nơi cắt cỏ chăn
trâu, nơi gánh phân, tát nước, nơi bắt cua mò ốc, nơi nghịch ngợm đánh trận,
thả diều và nuôi những ước mơ. Theo lẽ tự nhiên, cánh đồng trở thành đối tượng
cho nhà thơ bé con Trần Đăng Khoa thả buông cảm xúc. Lấp lánh nhiều vẻ, nhiều
gương mặt, nhiều sắc màu, nhiều khoảnh khắc đồng quê.
Đây
là đồng chiều vào phút giây đặc biệt:
Mặt trời chìm cuối đồng xa
Sương lên mờ mịt như là khói bay
Đất trời cách một gang mây
Và tôi cùng với luống cày tỏa hương
(Đồng chiều)
Đây là đồng thời khắc mưa khi chớm vào hè:
Rộn ràng là một cơn mưa
Trên đồng bông lúa cũng vừa uốn câu
(Mùa
Xuân mùa Hè)
Khi cánh đồng là một "cánh đồng vui
reo", ôm ụ pháo lảnh lót tiếng chích chòe.
Bao
nhiêu khẩu pháo đều rê rê nòng
Cánh
đồng vui reo
Gió
đồng rộng rãi
(Tiếng
chim chích choè)
Khi cánh đồng là cánh đồng rộn rịp náo nức cảnh
lao động tấp nập:
Tiếng
trâu và tiếng người
Vang
ruộng dài lõm bõm
(Cánh
đồng làng Điền Trì)
Một cánh đồng tươi tốt lúa trổ hoa - nơi hoang vu
xưa kia người nữ anh hùng du kích từng qua:
Đồng
lầy dày lác cô qua
Mấy
mùa lúa đã trổ hoa thơm lừng
(Về
thăm cô Bưởi)
Một cánh đồng của cô Thị Màu trên sân khấu và
trong đời thực:
Người
xem thoáng như quên chị
Chiều
nay gánh lúa trên đồng
Tần
tảo nuôi con, nuôi mẹ
Mười
năm ròng rã chờ chồng.
(Cô
Thị Màu)
Cánh
đồng lúa chín có cây đa, mương nước. Lá đa xanh, mương nước bạc, và màu vàng
lúa như một bức tranh
...
cây đa
Bên
mương nước giữa đồng
Lá
xanh dòng nước bạc
Biển
lúa vàng mênh mông
(Cây đa)
Cánh
đồng đầy chim khi vào mùa gặt:
Hạt
mẩy uốn cong bông
Chim
ngói bay đầy đồng
(Thôn
xóm vào mùa)
Lúa
chiêm vào mẩy, chim ri bay về
(Gửi
theo các chú bộ đội)
Cánh
đồng đang vụ gặt ven Cầu Cầm những năm tháng đạn bom của chiến tranh:
Rối
rít tiếng ai chào
Cánh
đồng đang mùa gặt
Lúa
vàng trong đáy mắt
Trời
xanh trong lưỡi liềm
(Cầu
Cầm)
Cánh
đồng của chú bé thả diều so sánh với bầu trời khi có cái diều bay:
Trời
như cánh đồng
Sau
mùa gặt hái
Diều
em lưỡi liềm
Ai
quên bỏ lại
(Thả
diều)
Cánh
đồng của bầu trời soi gương hay là cánh đồng lên trời, còn trời xuống ruộng:
Đường
cày ai rạch
Thành
dòng sông Ngân
Sao
như gốc rạ
Lô
nhô xa gần
(Hương
đồng)
Bài
thơ "Hương đồng" đã có những cảm nhận rất tinh tế về đất đai gieo
trồng với các mùi đặc biệt.
Đồng
ẩm trăng non
Luống
cày sực nức
....
Mùi
bùn đang ngấu
Mùi
phân đang hoại
Vôi
chưa tan hẳn
Còn
hăng rãnh cày
Hạt
giống mùa qua
Bốc
men trong đất
Giọt
giọt mồ hôi
ủ
lâu thành mật
Bốn
bề lên hương
Chỉ
có người con của ruộng đồng, đất đai mới có thể cảm nhận những mùi đó là hương,
và mới thấy chúng là "ngào ngạt" (Đi trong ngào ngạt. Niềm vui gieo
trồng). Tất nhiên có thể hiểu đây là hương của niềm vui, ngào ngạt của niềm
vui.
Có
thể nói "Đồng quê" - bài thơ về cánh đồng sau vụ gặt là một bức tranh
đẹp, mang nhiều nét đặc trưng của những phác thảo cánh đồng muôn vẻ trước đó
của Trần Đăng Khoa:
Làng quê lúa gặt xong rồi
Mây hong trên gốc rạ phơi trắng đồng
Chiều lên lặng ngắt bầu không
Trâu ai no cỏ thả rông bên trời
Hơi thu đã chạm mặt người
Bạch đàn đôi ngọn đứng soi xanh đầm
Luống cày còn thở sùi tăm
Sương buông cho đống hoang nằm chiêm bao
Có con châu chấu phương nào
Bâng khuâng nhớ lúa, đậu vào vai em.
Chỉ
non tay một chút thôi câu thơ "Làng quê lúa gặt xong rồi" sẽ được
viết thành "Làng quê gặt lúa xong rồi" liền một mạch chủ ngữ - vị
ngữ, nhưng vì thế mà mất cái mờ ảo không rành mạch rất cần ở trong thơ, nhất là
bài thơ tả cánh đồng vắng lúa. Hơn nữa, như thế cũng phá vỡ mất sự tiểu đối của
lúa gặt, mây hong, rạ phơi. Có cảm giác như không cần người, không có người,
lúa tự gặt, mây tự hong, rạ tự phơi. Hai câu thơ tiếp theo cũng thế. Chiều tự
lên, trâu tự đi ngao du (trâu ai no cỏ thả rông bên trời). Không có người, vắng
người nên mới "lặng ngắt bầu không". Nhìn cảnh này, trong ta sẽ thấp
thoáng câu thơ Huy Cận:
Nắng
xuống trời lên sâu chót vót
Mấy
con trâu no cỏ (hay chỉ có một con) thì bị đẩy ra xa tít tận "bên
trời" để chỉ còn một cánh đồng rỗng lúa. Hình như hơi thu bắt đầu toả lan
từ đây. Chỉ là hơi thu chứ chưa phải là sương thu, cho nên cảnh vật sáng lắm,
nét lắm
Bạch
đàn đôi ngọn đứng soi xanh đầm
Lấp
lánh vẻ đẹp buồn, đẹp xưa trong thơ mới của Thế Lữ "Hàng tùng rủ rỉ bên
cồn đìu hiu". Nhưng Trần Đăng Khoa lúc này đã rất có nghề, rất chặt chẽ.
Cái tiếng "rủ rỉ" có thể có lắm chứ. Nhưng Khoa đã viết "lặng
ngắt bầu không" rồi, nên bạch đàn cũng chỉ lặng ngắt mà soi xanh mặt đầm
thôi. Bạch đàn xanh, nước đầm xanh in thành ra màu xanh mới. Nếu không để tầm
quan sát trên cao mà hạ thấp xuống "bạch đàn đôi gốc" thì sẽ đánh mất
vẻ đẹp của từ "soi" (Nước gương trong soi tóc những hàng tre - Tế
Hanh; Chị tre chải tóc bên ao. Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương - Trần Đăng
Khoa).
Bạch
đàn soi, luống cảy thở, sương buông (bây giờ mới có sương), đống hoang nằm
chiêm bao. Sương buông màn cho đống hoang nằm ngủ. Một buổi chiều êm. Bao nhiêu
hoạt động mà vẫn lặng lẽ êm đềm. Vì đó là hoạt động của vật vô tri được nhân
hóa.
Chỉ
có một con vật duy nhất là con châu chấu. Nó bâng khuâng, nó nhớ, nó đậu...
xuống vai chú bé nhà thơ.
Bức
tranh đồng quê sau vụ gặt vừa có vẻ đẹp xưa cổ điển nhưng cũng đẹp vẻ đẹp sống
động, hiện đại của bây giờ. Con châu chấu bâng khuâng hay chính tác giả nhỏ
tuổi bâng khuâng. Bươm bướm hóa Trang Chu hay chính Trang Chu là bươm bướm?
Nhà Trang
28/12/1998
Hà
Nội 20/3/1999
in trong Vũ Nho - Trần Đăng Khoa thần đồng thơ ca, nxb Văn hóa thông tin, 2000.
Thưa chú Vũ Nho, dạo trước cháu có đọc quyển "Trần Đăng Khoa - thần đồng thơ ca" của chú và cháu rất thích. Tuy nhiên cháu không có điều kiện sở hữu nó. Cháu muốn hỏi chú bây giờ cháu có thể mua sách ở đâu ạ? Cháu cảm ơn chú.
Trả lờiXóa