Vũ Nho - chủ trang
K. Ximonov
Bản dịch nghĩa:
Hãy đợi anh, anh sẽ trở về
Chỉ cần hãy gắng đợi.
Hãy đợi khi những cơn mưa màu vàng
Gợi nỗi buồn phiền
Hãy đợi, khi những trận tuyết trút
Hãy đợi khi nóng nực
Hãy đợi khi người ta
Quên ngày hôm qua, không chờ đợi những người khác nữa
Hãy đợi, khi từ những nơi xa xôi
Những bức thư không tới
Hãy đợi khi những người cùng đợi
Đã chán sự đợi chờ
Hãy đợi anh, anh sẽ trở về
Đừng cầu chúc điều tốt
Cho những người biết làu làu
Rằng đã đến lúc quên
Dù cho mẹ và con trai
Tin rằng anh không còn
Dù bạn bè đã mỏi mệt đợi chờ
Ngồi xung quanh đống lửa
Uống rượu vang đắng cay
Để tưởng nhớ hồn anh
Hãy đợi - và đừng cùng với họ
Vội vàng cạn chén
Hãy đợi anh, anh sẽ trở về
Trêu gan tất cả những chết chóc
Người không đợi anh
Cứ để họ nói rằng : Gặp may
Những người không đợi chờ, không hiểu được
Bằng sự chờ đợi của mình
Em đã cứu sống anh
Giữa lửa đạn
Chỉ có em và anh sẽ biết
Vì sao anh thoát chết
Đơn giản, không có người nào khác
Như em, biết đợi chờ
( Vũ Nho dịch từ
tiếng Nga)
Bản
dịch thơ:
Em
ơi đợi anh về
Đợi
anh hoài em nhé
Mưa
có rơi dầm dề
Ngày
có dài lê thê
Em
ơi em cứ đợi.
Dù
tuyết rơi gió thổi
Dù
nắng cháy em ơi
Bạn
cũ có quên rồi
Đợi
anh về em nhé!
Tin
anh dù vắng vẻ
Lòng
ai dù tái tê
Chẳng
mong chi ngày về
Thì
em ơi cứ đợi!
Em
ơi em cứ đợi
Dù
ai thương nhớ ai
Chẳng
mong có ngày mai
Dù
mẹ già con dại
Hết
mong anh trở lại
Dù
bạn viếng hồn anh
Yên
nghỉ nấm mồ xanh
Nâng
chén tình dốc cạn
Thì
em ơi mặc bạn
Đợi
anh hoài em nghe
Tin
rằng anh sắp về!
Đợi
anh anh lại về.
Trông
chết cười ngạo nghễ.
Ai
ngày xưa rơi lệ
Hẳn
cho sự tình cờ
Nào
có biết bao giờ
Bởi
vì em ước vọng
Bời
vì em trông ngóng
Tan
giặc bước đường quê
Anh
của em lại về.
Vì
sao anh chẳng chết?
Nào
bao giờ ai biết
Có
gì đâu em ơi
Chỉ
vì không ai người.
Biết
như em chờ đợi.
Tố Hữu dịch
Lời bình của Vũ Nho
Bài
thơ là lời tâm tình nhắn gửi, là ước vọng của người ra trận đối với người ở hậu
phương, của người chồng đối với người vợ, trong đó chỉ láy đi láy lại một điều
duy nhất “ Hãy đợi anh. Anh sẽ trở về!”.
Nội
dung chính của bài thơ như tên gọi của nó là ĐỢI (Mười một lần “Hãy đợi”
và bảy lần “Đợi” thành ra 18 từ đợi trên
tổng số 135 từ của toàn bài).
Bấy
giờ là vào năm 1941, cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, gian khổ và anh dũng của
nhân dân xô viết vừa mới bắt đầu. Trước sức tấn công ào ạt của phát xít, quân
đội và nhân dân xô viết phải chịu rất nhiểu tổn thất, mất mát, hi sinh. Bài thơ
ra đời trong chiến tranh. Nó theo những người lính xô viết toả khắp các mặt
trận, trở thành khúc “chinh phu ngâm” của những người cầm súng. Người lính ra
đi, đối mặt với thần chết, chặn đứng thần chết nơi tiền tuyến, nhưng sức mạnh
của anh, niềm tin của anh, tình yêu của anh đặt ở hậu phương. Bài thơ nói về
chiến tranh, nhưng đây là mặt trận phía sau, mặt trận không có súng nổ, mặt
trận tình cảm; chính xác hơn là mặt trận tình yêu. Thử thách lớn lao nhất nơi
mặt trận này là sự bền bỉ, thủy chung. Thắng lợi ở mặt trận này có ý nghĩa
quyết định đối với tiền tuyến và cũng có ý nghĩa to lớn đối với chiến tranh. Vì
thế, người vợ, người chờ đợi là nhân vật trữ tình quan trọng, là toàn bộ cảm
hứng mà bài thơ hướng tới.
Em ơi đợi anh về
Đợi anh hoài em nhé
(Hãy
đợi anh, anh sẽ trở về. Chỉ cần hãy gắng đợi!). Người dịch đã diễn tả rất đạt
niềm mong ước “hãy đợi, hãy gắng đợi” thành “đợi anh hoài” - một sự chờ đợi
kiên trì, bền bỉ, dẻo dai. Chờ đợi, một điều không mới trong tình yêu. Nhưng
ĐỢI trong chiến tranh lại trở thành một điều hết sức khó khăn và ác liệt. Trước
hết, người phụ nữ chờ chồng ra mặt trận sẽ phải chịu đựng nỗi buồn rầu, mòn
mỏi, phải sống trong khắc khoải chờ mong. Thiên nhiên vô tình đồng lõa với kẻ
thù gặm nhấm tâm trạng con người khiến lòng buồn rười rượi:
-
Mưa rơi dầm dề
-
Tuyết rơi lạnh buốt
-
Nắng nóng thiêu đốt
Đây
không đơn thuần chỉ là những hiện tượng thiên nhiên dễ gây buồn nản, dễ làm mệt
mỏi, chán chường. Mưa dầm mùa Thu (những cơn mưa màu vàng ảm đạm làm nhão cả
đất trời). Tuyết giá mùa đông. Nắng nóng mùa Hạ. Sự luân chuyển thời gian cho
thấy rằng sự chung thủy chờ đợi không chỉ tính bằng ngày tháng, mà bằng mùa
tiếp mùa, năm tiếp năm dằng dặc. Trong đời sống tâm lí của con người, vui thì
ngày ngắn (Ngày vui ngắn chẳng tày gang), còn buồn thì ngày dài, nhất là buồn
trông ngóng thì ngày càng dài dằng dặc (Ba thu dọn lại một ngày dài ghê). Bởi
thế mà trong bản dịch, nhà thơ Tố Hữu, bằng sự tinh tế của mình, đưa câu thơ
dịch “Ngày có dài lê thê” vào là hết sức sáng tạo.
Điều
khó khăn với sự chờ đợi không chỉ là những cách xa vời vợi về không gian và
thời gian. Khó nhất là sợi dây nối mong manh giữa hai người xa thẳm - những lá thư bỗng nhiên vắng bặt. Xa
thời gian, xa không gian, những bức thư là sự nhắc nhớ, là sự hiện diện của
người ngoài mặt trận với người hậu phương. Không có thư. Tình huống rất xấu.
Người ngoài mặt trận hoặc đã bị thương nặng, hoặc bị bắt làm tù binh, hoặc bị
hi sinh. Mọi người đã mệt mỏi không chờ đợi nữa, nhưng người chiến sĩ vẫn mong
muốn dù lâm vào hoàn cảnh ấy- xin hãy gắng đợi chờ.
“
Hãy cứ đợi chờ” là một điều luôn luôn không thay đổi, bất chấp thiên nhiên, bất
chấp thời gian, bất chấp sự vắng tin, quên lãng. Chờ đợi trải qua thử thách lớn
nhất, khắc nghiệt nhất là khi không còn ai chờ đợi, không còn ai hi vọng nữa.
- Mẹ già con dại tin rằng anh không còn.
- Bạn hữu thân thiết nhất thì theo tục lệ, uống rượu
tưởng niệm hồn anh.
Chỗ
dựa tinh thần duy nhất của người vợ ở
hậu phương lúc này chỉ là bản thân chị, tình yêu và niềm tin của chị mà thôi.
Ước muốn của người lính là bất chấp tất cả, trái với tất cả, người vợ cố
chờ và không vội vàng nghĩ theo, làm
theo những người xung quanh. Nếu có thể dùng một câu thơ tóm tắt toàn bộ cảm
xúc cơ bản của các khổ thơ trên thì không gì thích hợp hơn là câu thơ “ hãy đợi
anh, chỉ cần em cố đợi” mà Tố Hữu đã dịch thành “ Đợi anh hoài , em nghe”.
Những
khổ thơ tiếp theo, điệp khúc giả định không còn nữa. Thay vào đó là lối diễn
đạt khẳng định: Anh trở về. Sự trở về thật kì diệu vì nó vượt lên mọi cái chết,
bất chấp và chiến thắng mọi cái chết. Nó
làm cho mọi người kinh ngạc, giải thích bằng sự rủi may của số phận. Còn người
lính và người vợ thủy chung giải thích theo tinh thần “cầu được, ước thấy”
huyền bí của những chuyện thần kì:
Bằng sự chờ đợi của mình
Em đã cứu sống anh
Vì sao anh thoát chết
Đơn giản, không có người nào khác
Như em biết đợi chờ
Đúng
là một sự kì diệu. Nhưng suy cho cùng, sự kì diệu này đâu phải đột ngột, bất
ngờ hiện ra. Nó là kết quả của sự âm thầm chờ đợi kì diệu của người phụ nữ. Sự
kì diệu sinh thành một sự kì diệu khác- ấy là một logic tự nhiên.
Trong
cuộc chiến tranh ở mặt trận tình yêu, người phụ nữ xô viết - hoá thân của lòng
chung thủy, hoá thân của tình yêu bền bỉ - đã chiến thắng. Tình yêu ấy đã thắp
sáng niềm tin chiến thắng cho tất cả mọi người.
Nàng
chinh phụ xô viết của K. Ximonov làm quen với bạn đọc Việt Nam năm 1947 tại
chiến khu Việt Bắc. Đất nước Việt Nam với bao nhiêu hòn vọng phu rải khắp Bắc -
Trung- Nam, với tác phẩm “ Chinh phụ ngâm” nổi tiếng của Đặng Trần Côn và Đoàn
Thị Điểm đã nhanh chóng đồng cảm với tư tưởng nhân đạo và niềm tin sâu sắc của
nhà thơ. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, bao nhiêu người phụ
nữ Việt Nam đã “chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền” (Thơ Hữu Thỉnh) bền bỉ
đợi chờ người ra trận, hẳn trong lòng họ có vọng thầm thì lời nhắc “Đợi anh hoài em nghe!”.
1991
In trong cuốn Bình thơ, nxb Hội nhà văn , 2015
Một lời bình hay. Cảm ơn bác Vũ Nho
Trả lờiXóaCám ơn bạn đã động viên, chia sẻ!
Xóa