CHỢ PHÂN
VAI BÒ
* Nguyễn Bàng
Hồi tôi còn học tiểu học ở trường làng,
thằng Đa bạn cùng lớp và cùng xóm hay rủ tôi đi câu. Dạo ấy ao làng thường
thả bèo phổng và bèo cái để lấy cái ăn cho lợn, chỉ vài nhà giàu có ao to mới
thả cá, rào bờ ao và luôn canh chừng người câu trộm nên thằng Đa và tôi chỉ
đến các ao người ta không cấm câu, tìm một bụi tre có bóng mát rồi rắc thính
và thả dây câu. Ấy vậy mà, thằng Đa nổi tiếng sát cá, mới ngồi một lúc nó đã
giật được năm bẩy con rô con diếc to bằng ba ngón tay trong khi tôi chỉ giật
được hai ba con mài mại hay con cá cờ nhỏ xíu như cái lá tre. Vì vậy nhiều
lần, khi ra về thằng Đa thương tình chia cho tôi mấy con rô, con diếc. U nó
thấy nó đem giỏ cá về thì nhanh tay đỡ lấy rồi đổ cá ra chiếc chậu sành và
tươi cười nói:
- Hôm nay nhà ta lại được ăn cơm với cá rồi
Nhưng thầy nó thì không hồ hởi như u nó.
Ông nghiêm giọng bảo vợ:
- Bà chỉ làm hư con thôi. Cái ngón nghề câu
cá ấy liệu có nuôi được nó cả đời không hay là sẽ như cổ nhân nói: “Bé đi
câu, lớn đi hầu, già làm mõ”. Mà tôi nói cho mà biết, làm mõ cũng không đến
lượt nó đâu, mỗi làng chỉ cần một thằng mõ thôi mà vợ chồng thằng mõ làng ta
còn trẻ khoẻ lắm. Không chịu khó học hành thì chỉ còn một nước là đi làm phu
đổ thùng cho nhà Năm Giệm.
Tôi nghe người lớn nói, dòng họ nhà thằng
Đa là một dòng họ nhiều chữ nghĩa nhất làng, chưa có ông nghè nhưng đã có dăm
bẩy ông cống từng làm đốc học hay làm quan. Đến đời ông nội nó vừa đậu xong
tú tài thì đấy cũng là khoa thi nho học cuối cùng. Văn chương phú lục dở dang
mà đường cày thì không biết, ông nội nó đọc sách rồi làm ông lang ở làng.
Thầy nó được theo tân học nhưng vừa mới hết tiểu học thì bị ốm dai dẳng,
thuốc thang của chính ông nó bốc cho uống mấy năm mới khoẻ lại nên việc học
cũng đành bỏ dở rồi được ông nó truyền lại nghề làm thuốc. Nó lại là con trai
duy nhất trong nhà năm chị em nên thầy nó quyết tâm sẽ cho nó học tới nơi tới
chốn để mở mày mở mặt với dân làng.
Giờ nghe thầy nó bảo không chịu khó học
hành thì chỉ còn một nước là đi làm phu đổ thùng cho nhà Năm Giệm. Tôi thật
không hiểu phu đổ thùng là gì và nhà Năm Giệm là ai bèn về hỏi bà nội tôi. Bà
tôi bảo:
- Là thầy nó nói những người chuyên lấy
phân ở khu vực nội thành còn gọi là phu đổi thùng. Trong nội thành, hiện nay
mới có một số ít hố xí máy tự hoại ở khu phố Tây, khu phố ta nhà nào cũng chỉ
có chuồng xí thùng. Hàng đêm, phu vệ sinh đẩy xe bò đến các phố thay thùng
lấy phân. Họ đập cửa gọi đổi thùng, đổi thùng và nghe thấy tiếng là chủ
nhà đang ngủ cũng phải dậy. Để át mùi, chủ nhà phải thắp vài nén hương rồi
còn phải ngồi ngoài cửa trông nhà vì sợ kẻ gian lợi dụng lẻn vào ăn trộm đồ
đạc. Nhiều nhà chuẩn bị sẵn mấy xu lẻ cho phu để họ không làm dây ra nhà.
Việc đổi thùng diễn ra cũng nhanh vì phu chỉ lấy thùng đầy ra rồi đặt thùng
không vào là xong. Phân thu đưa về đê Đại La, ở đấy một phần đem chứa
vào các bể xây chờ người đến mua, phần còn lại phu kéo thẳng đến các vùng
trồng rau ngoại thành như Canh, Diễn, làng Vòng nhà mình hay làng Láng chuyên
trồng rau húng.
Nhưng cháu đừng nghĩ phân là thứ thối tha
bẩn thỉu. Nó là mối lợi lớn cho nhà thầu. Năm Giệm chính là ông chủ thầu phân
đó. Năm Giệm ở quê ra, ban đầu làm công cho Sở Xe điện, sau đó chuyển sang làm
đại lý gạch, ngói. Khá lên, ông ta bỏ tiền mua đất ở đầu phố Giảng Võ, khi đó
khu vực này còn là ruộng xen lẫn hồ ao, nhà dân rất thưa thớt lập Xí nghiệp
Vệ sinh với hàng loạt ngôi nhà lợp tôn là chỗ chứa xe và thùng lấy phân. Xí
nghiệp có một bãi rộng, bên trong có những bể xây lớn dùng để chứa phân. Hồ
đầm chung quanh có nhiều nước, công nhân vệ sinh rửa thùng ở đấy. Năm Giệm
còn làm nhà cho công nhân thuê ở tập trung ở đầu đường Đại La, chỉ là nhà
tranh, nhà tôn lụp xụp, chật hẹp nhưng chật kín người ở. Phu ngày càng đông
nên nhà cứ làm thêm ra mãi, hồ, đầm bị thu hẹp dần, rác rưởi thành phố hàng
ngày xe đến đổ ở đây. Ông ta còn được nhà nước hỗ trợ cho cảnh sát cấm người
ngoại thành vào mua hoặc lấy trộm phân trong các phố, phạt nặng những người
gánh phân đi trong phố với lý do bảo vệ vệ sinh chung.
Tuy thế, nhiều người ở một số làng vùng ven
vẫn làm công việc lấy phân. Cứ gà gáy canh một là họ mang theo quang gánh và
chiếc móng sắt hình chóp, có cái cán tre chừng hơn 1m, rủ nhau vào phố lấy
phân ở các nhà vệ sinh công cộng hay những nhà không ký hợp đồng với chủ
thầu. Họ thường đi lúc nửa đêm để tránh bị cảnh sát bắt. Họ lấy phân về để
bón cho rau màu nhà họ và để bán cho các hộ dân khác. Trên con đường nhựa từ
Cầu giấy về làng ta, ở quãng Vai Bò có hẳn một cái chợ phân họp từ mờ
sáng đến khi rõ mặt người là tan, ai "ế" thì gánh về hôm sau quẩy
ra bán tiếp. Ấy vậy mà họ bảo, làm nghề lấy phân còn nhàn hơn nghề làm
ruộng vì không phải suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời.
Tôi đem chuyện bà tôi nói kể cho thằng Đa
nghe. Nó bảo:
- Thế mà nghe thầy tao nói cứ tưởng cái
nghề đổ thùng không ai thèm làm. Xem ra muốn có một chân đi lấy phân cũng đâu
có dễ, mày nhỉ?
Rồi nó nói:
- Tao cũng thấy u tao bảo có cái chợ phân ở
Vai Bò mà chưa biết mặt mũi nó ra sao. Hay là hôm nào tao với mày đi chợ phân
chơi?
- Bà tao bảo chợ họp từ mờ sáng đến khi có
ánh mặt trời là tan, sớm thế đi làm sao được?
- Thì dậy từ gà gáy rồi đi.
Sáng hôm say, y hẹn thằng Đa chờ tôi ở đầu
điếm canh của thôn rồi hai đứa đi ra đường cái và ngược lên Vai Bò. Nguyên
khu rệ đường cái này ngày xưa người làng thường đem ra bán những cái ách dùng
để khoác vào vai trâu bò để chúng kéo cày, vì thế mà gọi là chợ Vai bò. Về
sau người ta mang đủ các thứ nông cụ như cày cuốc và cả đòn càn đòn gánh ra
bán. Khi đường cái được trải nhựa thì chợ bán nông cụ bị cấm họp nhưng khi
nghề lấy phân phát triển thì tự nhiên lại trở thành chợ mua bán phân, không
ai cấm nữa.
Đây là chợ phân tươi, hoàn toàn không có
phân ủ (phân chín) không có phân xanh (phân làm từ các loại lá cây) hay phân
hoá học ở các cửa hàng phân bón ngày nay. Cũng rất ít có phân chuồng, tức
là phân lợn, phân gà hay phân trâu bò. Tất cả đều là phân người, dân vùng
ngoại thành quanh quê tôi gọi là phân bắc.
Chợ họp tại địa điểm có tên là Vai Bò ngay
bên đường cái quan, chính giữa đoạn đường 1cây số từ ô Cầu Giấy về làng Vòng.
Người dân làng Vòng từ xa xưa chủ yếu là cấy lúa trồng rau và hoa nổi tiếng
với kinh thành là hoa lơ (Vòng Tiền và Vòng Trung), cải bắp và hoa huệ (Vòng
Sở). Đặc biệt là ở Vòng Hậu có nghề làm cốm từ lâu đời, cốm Vòng được nhân
dân đất thành Thăng Long và các vùng miền gần xa ưa chuộng. Nhưng những người
bán phân tươi không phải người làng Vòng mà là người ở các làng khác có tập
quán đi các nơi, nhất là vào nội thành lấy phân bắc đem về đây bán. Họ không
phải là công nhân vệ sinh của nhà nước hay phu “đổi thùng” của nhà thầu Năm
Giệm mà là người ở ngoại thành vào lấy trộm phân nên trên đường quẩy phân về
chợ, họ thường bị công nhân vệ sinh bắt quang sọt hoặc bị cảnh binh phạt tiền
khốn khổ lắm.
Lúc tôi và thằng Đa đến thì trời đã tờ mờ
sáng nên chợ phân đang rất đông kẻ bán người mua. Mặc dù là chợ phân tươi
nhưng không thấy ai bịt mũi bịt miệng mà khắp chợ ồn ào tiếng chào bán lẫn
tiếng hỏi mua. Người bán phân kiếm một chỗ bên rệ đường rồi bầy những sọt
phân ra và đứng chờ người mua Người mua phân dùng một cái gắp phân bằng cật
tre, trông hơi giống một chiếc đũa cả sục sâu vào đáy sọt phân rồi rút ra,
đưa lên mũi ngửi để xem phân tốt hay phân xấu. Có sọt phân bị chê là chua, có
sọt bị chê là nát nhoét, không đậm. Người bán phân cũng dùng cái gắp ấy ngoáy
sục lại vào đáy sọt phân rồi rút ra, đưa lên ngang tầm mũi mình và cả mũi
người mua mà phân bua: “Phân ngon thế này mà còn chê à!”.
Bỗng ở cuối chợ nổi lên tiếng om sòm cãi
chửi nhau. Tiếng một người đàn bà đi mua phân:
- Cứt mà còn làm giả thế này không sợ
thất đức à?
Rồi tiếng một người đàn ông bán phân đáp
lại:
- Giả đâu mà giả!
- Không giả thì là cái gì đây, nhìn
xem cứt hay đất bùn nhuộm nghệ đem trộn vào? Người đâu mà tham lam thế!
- Sợ quẩy đi đường nó sóng sánh ra đường
bẩn thỉu nên cho thêm tý đất bùn vào cho nó quện. Mua thì mua không mua thì
đi chỗ khác cho người ta còn bán hàng, đừng có mà ám mãi.
- Á à, đuổi khách đi cơ đấy! Làng
sống bằng nghề hót cứt, có đền thờ Thành Hoàng hẳn hoi. Đây đã tận mắt nhìn
vào trong đền, thấy thờ đôi quang và chiếc đòn gánh cùng hai mảnh xương trâu,
tất cả đều được sơn son thếp vàng. Làm ăn gian giối không sợ bị Thành Hoàng
vật chết à?
Ở những chỗ người mua đã mặc cả xong giá,
họ trút phân từ sọt của người bán phân sang sọt của mình, lòng sọt đã chít
sơn ta nhưng đáy sọt vẫn lót thêm một lớp tro bếp cho nước phân không bị rò
rỉ. Khi người mua đã gánh phân đi thì người bán đem sọt của mình xuống cái ao
to ở bên đường rửa ráy. Không biết ao nhà ai nhưng bè muống họ thả trong ao
dày đặc và tốt xanh um.
Thằng Đa nói như người lớn với tôi:
- Đúng là “Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì
phân”. Rau muống nhà kia luộc lên ăn phải biết là đậm miệng, mày nhỉ?
Lớn lên, tôi và thằng Đa đều đi khỏi làng
kiếm sống. Tôi thì đi xuống miền biển làm nghề gõ đầu trẻ còn thằng Đa ra Hà
Nội buôn bán thuốc bắc. Tuy hai nơi ở cách nhau có hơn trăm cây số nhưng do
một thời tàu xe đi lại khó khăn, mất ngày mất buổi nên chúng tôi ít khi có
dịp gặp lại nhau mà thỉnh thoảng chỉ thư từ thăm hỏi nhau, vẫn mày tao chí tớ
như thời còn bé ở làng.
Một ngày, tôi đọc xong cuốn sách nửa hồi ký
nửa tiểu thuyết Chiều Chiều của Tô Hoài, có đoạn nói về chuyện
các chuyến đi thực tế của các nhà văn nhà thơ ở miền Bắc trước đây. Một trong
những công việc chính của họ là đào hố phân rồi hằng ngày đi nhặt phân, từ
phân người đến phân súc vật, về đổ vào các hố rồi nhặt lá cây bỏ vào, trộn
đều, ủ lại cho chúng ngấu kết lại với nhau.
Theo lời kể của cụ Tô Hoài, mỗi buổi sáng,
nhà thơ Phùng Quán ở trong xóm đi ra,“gánh đôi quang lồng một, hai thanh
tre gắp phân đặt trên mặt sọt.” Một buổi chiều, gánh phân về, “Quán kể nông
nỗi đi gắp phân như là đọc một mẩu chuyện trên báo. Các đường ngoắt ngoéo
trong xóm trổ ra cổng đồng còn tối đất. Những con trâu con bò ra ruộng làm
sớm, thói quen tự nhiên, tới rệ cỏ ven hào nước thì đứng lại ỉa. Đến khi sáng
hẳn, trẻ con trong xóm mắt nhắm mắt mở lốc nhốc kéo ra ngồi bĩnh ở đấy. Hai
thanh tre của Quán mở ra gắp lên sọt tuốt cả phân trâu phân người. Tìm ra
những con đường phân này cũng chẳng phải tài giỏi riêng Quán, mà sáng nào
cũng có người nhặt phân từ các ngõ xóm ra cổng đồng, đi muộn có khi hết.”.
Cũng ngày ấy, tôi vừa nén nỗi đau như bị
xát muối vào lòng vì phải bỏ ra gần hai tháng lương để lắp cái điện thoại bàn
cho mấy đứa con ở xa gọi về không phải chạy ra bưu điện gần nhà đăng ký để
nghe chúng nó nói. Nhớ lại chuyện cùng thằng Đa đi chợ phân Vai Bò, tôi bèn buôn
chuyện với nó qua chiếc điện thoại bàn đó, kể lại những điều cụ Tô Hoài viết
cho nó nghe. Nó cười khằng khặc bên kia đầu sóng:
- Thì việc nhặt phân đã được ông Tố Hữu ca
ngợi hết lời:
Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn
lá.
Mỗi hòn than, mẩu sắn, cân ngô.
Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ!
Ông ấy ngồi ở nhà cao lộng gió, ăn của ngon
vật lạ mua ở chợ Tôn Đản của vua quan rồi nhào lặn cho ra những vần thơ như
thế chứ ông ấy có bao giờ dọn tí phân rơi nào đâu.
Ông ấy cũng đã từng ca ngợi Mao Trạch Đông:
Một tia lửa nhỏ
Trong xóm Tương Đàm
Cháy lan dần, đỏ khắp
Hồ Nam
Và chính Mao Trạch Đông đã phát ngôn câu
nói nổi tiếng khắp thế giới: “Trí thức không bằng cục phân.”
Rồi nó thôi cười và trầm giọng lại:
- May mà tao không nghe lời dạy của
thầy tao, chăm chỉ học giỏi để trở thành trí thức. Nếu nghe lời cụ thì bây
giờ tao cũng không bằng cục phân, mày nhỉ?!
Tôi toan tắt máy thì lại nghe tiếng thằng
Đa nói tiếp:
- Mà này, mày đừng tự ái rồi chửi tao
nhé! Vì nghe đâu cái nghề gõ đầu trẻ của mày cũng được coi là tiểu tư sản trí
thức đấy!
*
Sài Gòn, tháng 08.2018
NGUYỄN
BÀNG
Địa chỉ: Thành phố Sài Gòn
Email: bnguyen37@gmail.com
|
Chuyên mục
Thứ Hai, 3 tháng 9, 2018
CHỢ PHÂN VAI BÒ
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét