VỀ CHỮ
“HỒNG” TRONG BÀI THƠ “MỘ” CỦA HỒ CHÍ MINH
Hoàng Tuấn Công
Đây là bài viết công phu, sâu sắc. Các bạn giáo viên văn THPT và bạn đọc nói chung cần biết. Cám ơn anh Hoàng Tuấn Công về bài viết này. vunhonb.blogspot.com
Trên tạp chí Ngôn ngữ học-Viện ngôn ngữ học Việt
Nam, số 6-2007 có bài “Thiết kế thử nghiệm bài học ngữ văn” đối với bài
thơ “Mộ (Trích ngục trung nhật ký, Hồ Chí Minh, Ngữ văn 12, tập 1)” của
Th.S Vũ Thị Sao Chi (*) Bài viết thể hiện sự đầu tư
công phu khi đưa ra cách giảng dạy bài thơ “Mộ” (Chiều tối).
Đặc biệt đã có sự so sánh khá kỹ giữa bản phiên âm, dịch
nghĩa và dịch thơ để hướng dẫn giáo viên phân tích, cảm thụ cái hay,
cái đẹp của bài thơ.
Tuy nhiên, khi phân tích hai câu thơ cuối:
Tuy nhiên, khi phân tích hai câu thơ cuối:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Nam Trân dịch:
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng.
ThS. V.T.S.C chỉ căn cứ vào chữ “hồng” qua bản
dịch thơ của Nam Trân mà không tìm hiểu chữ “hồng” trong
nguyên tác chữ Hán nên dẫn đến sự nhầm lẫn. Cụ thể V.T.S.C luôn bám vào hai
từ “rực hồng” của người dịch để hướng dẫn giáo viên phân tích,
cảm thụ bài thơ.
Khi đọc nguyên tác chữ Hán của bài thơ “Mộ” chúng ta sẽ
thấy rằng, chữ “hồng” (烘) trong câu cuối bài
thơ “Mộ” có bộ hoả(1). Chữ “hồng” có bộ
hoả, tác giả bài thơ dùng với nghĩa, đốt, nhóm lửa lên
chứ không phải chữ “hồng”紅 có bộ mịch (糸) là mầu hồng- sắc
mầu của ngọn lửa “rực hồng”. Có nghĩa, chữ “hồng” (烘) trong câu thơ là một động từ ( đốt lên,
nhóm lửa lên, sưởi ấm) chứ không phải chữ “hồng” (紅) tính từ (chỉ màu sắc lửa hồng).
Đây không phải là sự ngẫu nhiên. Ta có thể so sánh cách dùng một
số chữ “hồng”khác có trong tập thơ Ngục trung nhật ký.
Để chỉ màu hồng của mặt trời, của ánh sáng xua tan bóng đêm
trong bài Tảo giải (Giải đi sớm) tác giả đã dùng
chữ “hồng” có bộ mịch (紅). Chữ
"hồng" có bộ mịch (紅) với nghĩa mầu
sắc (của ánh sáng) xua tan bóng đêm-hoàn toàn khác với chữ “hồng” có
bộ hoả (烘) nghĩa là đốt lên, sưởi ấm trong bài “Mộ”:
“Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng
U ám tàn dư tảo nhất không”
Dịch nghĩa:
Màu trắng ở phương đông đã thành màu hồng
Bóng đêm rơi rớt đã bị quét sạch.(2)
Hoặc chữ “hồng” (紅), cũng chỉ mầu
sắc như vậy trong bài “Triêu cảnh” (Cảnh buổi sớm):
Thái dương mỗi tảo tòng sơn thượng
Chiếu đắc toàn sơn xứ xứ hồng
Dịch nghĩa:
Mỗi buổi sớm, mặt trời từ đỉnh núi mọc lên
Núi non, xứ xứ đều rực ánh hồng (3)
Trở lại bài thơ “Mộ”. Do không hiểu đúng nghĩa nguyên tác
chữ “hồng” (烘) lại bám vào
chữ “rực hồng” của Nam Trân dịch nên người thiết kế thử nghiệm
bài học ngữ văn cho giáo viên đã sa vào suy diễn, gán ghép, “tán” ý thơ
mà không ít nhà phê bình đã từng lầm tưởng:
“Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh “lò than rực hồng”. Đây là tín hiệu đa tầng ý nghĩa”;... “Hình ảnh lò than rực hồng còn là một nét vẽ tương phản trên nền bóng đêm đen, nó cân lại bức tranh của núi rừng chiều tối, làm sáng lên và ấm lại khung cảnh hoang lạnh tối tăm. Nghệ thuật thơ Đường gọi những hình ảnh như thế là “thi nhãn” (mắt thơ). Ánh sáng lung linh, sức sống ấm áp, niềm tin yêu cuộc đời đã toả ra từ ngọn lửa-con mắt thơ rực rỡ ấy. Từ sức bật của hình tượng thơ (rực hồng) phả ra một nguồn ánh sáng, một nguồn nhiệt lượng mạnh mẽ để tiếp cho con người hơi ấm...”... “Hình ảnh lò than rực hồng cuối bài thơ chính là một biểu hiện của nhãn quan nghệ thuật ấy.”v.v...
“Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh “lò than rực hồng”. Đây là tín hiệu đa tầng ý nghĩa”;... “Hình ảnh lò than rực hồng còn là một nét vẽ tương phản trên nền bóng đêm đen, nó cân lại bức tranh của núi rừng chiều tối, làm sáng lên và ấm lại khung cảnh hoang lạnh tối tăm. Nghệ thuật thơ Đường gọi những hình ảnh như thế là “thi nhãn” (mắt thơ). Ánh sáng lung linh, sức sống ấm áp, niềm tin yêu cuộc đời đã toả ra từ ngọn lửa-con mắt thơ rực rỡ ấy. Từ sức bật của hình tượng thơ (rực hồng) phả ra một nguồn ánh sáng, một nguồn nhiệt lượng mạnh mẽ để tiếp cho con người hơi ấm...”... “Hình ảnh lò than rực hồng cuối bài thơ chính là một biểu hiện của nhãn quan nghệ thuật ấy.”v.v...
Từ sự nhầm lẫn đó, Vũ Thị Sao Chi đã chê Nam Trân khi dịch câu: “Cô
em xóm núi xay ngô tối”:
“Bản dịch đã thêm vào chữ tối làm mất đi dấu hiệu nghệ thuật độc đáo (trở nên lộ liễu) vì nguyên bản không nói tối mà vẫn gợi được tối, nhờ ánh sáng của lò than rực hồng-nghệ thuật lấy sáng để gợi tối.” và “Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh lò than rực hồng. Đây là một tín hiệu nghệ thuật đa tầng ý nghĩa. Trước hết hình tượng thơ gợi bước đi của thời gian. Thời gian vận động từ chiều sang tối hẳn. Nguyên bản câu cuối không có chữ tối mà cả bóng tối bịt bùng của núi rừng đã được mở ra khi “lò than rực hồng” của cô gái xóm núi bừng sáng (khi mặt trời tắt, rừng núi mịt mùng thì tự nhiên ta có thể nhìn rõ nơi có ánh sáng) Lấy ánh sáng gợi tối chính là một thủ pháp độc đáo của ý thơ này.” (HTC nhấn mạnh)
“Bản dịch đã thêm vào chữ tối làm mất đi dấu hiệu nghệ thuật độc đáo (trở nên lộ liễu) vì nguyên bản không nói tối mà vẫn gợi được tối, nhờ ánh sáng của lò than rực hồng-nghệ thuật lấy sáng để gợi tối.” và “Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh lò than rực hồng. Đây là một tín hiệu nghệ thuật đa tầng ý nghĩa. Trước hết hình tượng thơ gợi bước đi của thời gian. Thời gian vận động từ chiều sang tối hẳn. Nguyên bản câu cuối không có chữ tối mà cả bóng tối bịt bùng của núi rừng đã được mở ra khi “lò than rực hồng” của cô gái xóm núi bừng sáng (khi mặt trời tắt, rừng núi mịt mùng thì tự nhiên ta có thể nhìn rõ nơi có ánh sáng) Lấy ánh sáng gợi tối chính là một thủ pháp độc đáo của ý thơ này.” (HTC nhấn mạnh)
Tất cả những bóng đêm Vũ Thị Sao Chi tưởng tượng ra như: “nét
vẽ tương phản trên nền bóng đêm đen”, “hoang lạnh tối tăm”, “bóng tối bịt bùng
của rừng núi đã được mở ra” đều thể hiện sự lạc lối bắt đầu từ
chữ “hồng”. Vũ Thị Sao Chi quên rằng, bài thơ tả cảnh chiều
tà, chiều muộn, gần tối chứ không phải trời đã tối. Tính
thời gian (hay giới hạn thời gian) tác giả bài thơ đã khẳng định ở đầu đề bài
thơ là chữ “Mộ” (暮) chứ không phải chữ “Dạ” (夜).
Nên hiểu rằng, với các dân tộc miền núi cao, bắp ngô là lương
thực chính hàng ngày. Ngô làm cơm, làm bánh được xay dùng từng bữa. Xay ngô
chiều để chuẩn bị cho bữa tối. (Giống như tiếng chày giã gạo vang lên rộn rã
rừng chiều của cư dân vùng thung lũng lúa nước chuẩn bị bữa cơm tối). Do đó,
hai câu:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Dịch nghĩa:
Thiếu nữ xóm núi xay ngô,
Ngô xay xong, lò than đã được nhóm/đốt lên.
Công việc đốt lên, nhóm lò lên ở đây
được hiểu là chuẩn bị cho bữa cơm tối (lô = lò than, dĩ = đã,
được; hồng = đốt lên, nhóm lên ). Bởi vậy khi dịch
câu “Ngô xay xong, lò than đã được đốt (cháy rực) lên” thành “Xay hết
lò than đã rực hồng” ,Nam Trâm đã có ý thêm chữ “tối” vào
câu thơ trước: “Cô em xóm núi xay ngô tối”. Có nghĩa, xay ngô chuẩn bị cho bữa cơm
tối, không phải xay ngô khi trời (đã) tối; và hai
từ “rực hồng” Nam Trân dịch ở đây, nghĩa đen là bếp lửa nấu cơm chiều, không
phải ngọn lửa cháy trong bóng tối, “Thời gian vận động từ chiều sang tối
hẳn” như sự suy diễn của V.T.S.C.
Như trên đã nói, chữ “hồng” (烘) trong bài thơ này có nghĩa là đốt lên, nhóm
lửa lên, sưởi ấm, không phải chữ “hồng” (紅) là ánh lửa sáng mầu hồng. Vậy,
tại sao Hồ Chí Minh lại dùng chữ “hồng” với nghĩa là nhóm lửa
lên, mà không dùng chữ “hồng” với nghĩa đơn thuần là ánh
lửa sáng mầu hồng trong đêm tối? Chúng ta đều biết, trong khoảng thời gian
bị giam cầm, Hồ Chí Minh liên tục bị giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác:
Liễu Châu, Quế Lâm, lại Liễu Châu
Đá qua đá lại, bóng chuyền nhau.
Vô đề(4))
Bài thơ “Mộ” là một trong những bài Hồ Chí Minh làm khi đang
trên đường bị giải. Đó là khung cảnh buổi chiều, thời khắc mọi vật dường như
đều mệt mỏi sau một ngày dài. Cánh chim mỏi bay về rừng tìm chốn ngủ, chòm mây
đơn chiếc cũng trôi chậm lại. Tất cả dường như đều trở về ngôi nhà của riêng
mình để nghỉ ngơi. Trong khi người tù vẫn “cất bước trên đường thẳm”(5) và
không biết “Giải tới bao giờ, giải tới đâu”(6). Giữa
rừng chiều vắng, đói rét, mỏi mệt, ai chẳng mơ về một mái ấm bình dị, nơi
có bếp lửa ấm áp và bữa cơm tối đang chuẩn bị. Buổi chiều chính là
thời khắc dễ khiến những bước chân tha hương nhớ, nghĩ, mơ về người thân và mái
ấm gia đình. Thơ Hồ Chí Minh, cảnh và tình bao giờ cũng rất cụ thể, giản dị và
thắm đượm tình người cùng hơi thở cuộc sống. Lò than được đốt lên,
nhóm lên sưởi ấm không gian khi một ngày sắp tàn như khẳng định ngọn lửa trong
lòng người tù không bao giờ tắt. Nó tiếp tục được nhen lên, cháy lên sau một
ngày tưởng chừng trí lực đã cùng kiệt. Câu thơ như thắp lên ngọn lửa ý chí -
ngọn lửa sẽ cháy lên để tiếp sức cho một cuộc hành trình gian khổ ngày mai đang
đợi phía trước...
Ngoài ra, có nhiều điểm, ThS V.T.S.C cần cẩn trọng hơn khi thiết
kế bài giảng cho giáo viên. Ví như câu: “Quyện điểu quy lâm tầm túc
thụ” (Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ). Có lẽ ThS không đọc kỹ nguyên
tác nên lầm chữ “túc” (宿) với nghĩa tá
túc, ngủ lại trong câu thơ thành “túc” (足) là chân, và dịch nghĩa cho học sinh
là: “Chim mỏi bay về rừng tìm chốn dừng chân” (Hoàng
Tuấn Công nhấn mạnh). Chim bay bằng cánh nên không thể dùng
từ dừng chân. Hơn nữa, chim về rừng tìm chốn (nơi chỗ) ngủ - (“tầm túc
thụ”), không phải“dừng chân” (để nghỉ). Nguyên tác cũng
không dùng chữ “túc” (宿)với nghĩa này.
Một điều nữa. Hai chữ “cô vân” trong câu “Cô
vân mạn mạn độ thiên không” Nam Trân dịch là “chòm mây”.
ThS V.T.S.C cho rằng: “Bỏ sót một tín hiệu nghệ thuật quan trọng về
hình ảnh đám mây, đó là chữ cô (một mình) gợi sự lẻ loi, đơn chiếc,
trống vắng, hoang lạnh”. Sự thực Nam Trân không kém cỏi tới mức vô tình “bỏ sót
tín hiệu nghệ thuật quan trọng” như VTSC nói. Phải thấy rằng, khi dịch
thơ, khó chọn từ nào hay hơn “chòm mây” để diễn tả hình
ảnh “cô vân”. Thực tế đã chứng minh. Dù chê Nam Trân, nhưng
chính VTSC cũng không đưa ra được cách dịch nào hay hơn để không “bỏ
sót tín hiệu nghệ thuật quan trọng” của hai từ “cô vân” ấy.
Ngược lại, khi đưa ra bản dịch nghĩa của câu thơ này, thậm chí
là từ dùng trong bài viết (mặc dù không bị câu thúc về số lượng từ hay niêm
luật), VTSC vẫn phải dùng lại hai chữ “chòm mây” của Nam Trân
để diễn tả hai từ “cô vân” !(Một chòm mây chầm chậm trôi
giữa không trung). Cũng cần nói thêm, hình ảnh “cô vân”(một
đám mây, cụm mây, chòm mây), “mạn mạn” (từ láy Hán Việt: bay,
trôi chầm chậm) là những hình ảnh chỉ có được trong một ngày đẹp nắng, hoặc
buổi chiều tà đẹp trời. Không thể là cảnh ngày đông bầu trời xám xịt u
ám, “hoang lạnh” (chữ của Vũ Thị Sao Chi-HTC). Và theo
tôi, “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ, Chòm mây chầm chậm bay giữa từng
không”là những hình ảnh đẹp, gợi vẻ êm ả, thanh bình, trìu mến của bầu trời
cảnh vật vùng sơn cước lúc chiều tà, không hẳn “gợi sự lẻ loi, đơn
chiếc, trống vắng, hoang lạnh” như cách hiểu của ThS. Bởi điều này
không phù hợp với cái nhìn lạc quan trong mọi hoàn cảnh thường thấy trong thơ
Hồ Chí Minh, và cụ thể đối với chính bài “Mộ”.
Tóm lại, chữ “hồng” (烘) trong bài thơ “Mộ” của Hồ Chí Minh nghĩa là đốt
lên, nhóm lên, sưởi ấm, không phải chữ “hồng” (紅) với nghĩa là mầu hồng. Có lẽ, do ngay từ bản dịch
nghĩa, Nam Trân đã dịch thoát chữ “hồng” (Ngô xay xong lò
than đã đỏ) nên tạo ra sự hiểu nhầm cho không ít
người, trong đó có ThS. Vũ Thị Sao Chi. Nhưng khi dịch thơ Nam Trân lại thêm từ
“rực” vào : “Xay hết lò than đã rực hồng” (lò than cháy rừng
rực). Cách dịch của Nam Trân là chấp nhận được và phải thừa nhận rằng đây là
bản dịch hay nhất từ trước tới nay.
Dịch nói chung và dịch thơ nói riêng, có trường hợp làm
cho bản gốc trở nên hay hơn. Cũng có khi không thể chuyển tải hết ý của nguyên
tác. Đó là chuyện thường thấy và phải biết chấp nhận. Hơn nữa khi đã đi sâu vào
phân tích, cảm thụ thơ dịch (đặc biệt là thơ chữ Hán) nên tìm hiểu, so sánh với
phần nguyên tác. Không nên tìm hiểu qua phần phiên âm,
dịch nghĩa, dịch thơ rồi vội nhận xét, phê bình, đặc biệt đối với
những bài truyền đạt cho giáo viên, học sinh./.
Thanh Hoá 20/08/2007
Chú thích:
(1)-Tất cả các sách xuất bản có in phần nguyên
tác chữ Hán bài thơ “Mộ” của Hồ Chí Minh đều thấy chữ “hồng”( 烘) có bộ hoả này, kể cả bút tích của bài thơ.
(2) (3) (4) (5) (6) –Những câu thơ này đều
trích trong “Ngục trung nhật ký-Hồ Chí Minh.
(*) (Hiện là Tiến sĩ - Phó tổng biên tậpTạp
chí ngôn ngữ học-Viện ngôn ngữ học Việt Nam).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét