Những ngôi sao hình quang gánh của Nguyễn Phan Quế Mai
Nhà
xuất bản Hội nhà Văn, 2011
Vũ Nho
Đây là tập thơ song ngữ Việt-Anh và là tập thơ thứ ba
của tác giả. Hơn một nửa (ba mươi bài) lấy lại những bài thơ đã in trong Cởi gió, tập thơ được giải thưởng của
Hội nhà văn Hà Nội. Và hơn hai mươi bài thơ mới viết sau Cởi gió. Sự xuất hiện của Nguyễn Phan Quế Mai như thế là may mắn và
thuận lợi.
Quả thật, trong số những cây bút nữ
mới nổi, Nguyễn Phan Quế Mai tạo được một ấn tượng tốt trong bạn đọc. Ấn tượng
ấy, theo tôi trước hết là sự chân thành và hồn nhiên, trong trẻo của người
viết. Không ồn ào hay gồng mình để tạo sự chú ý, Quế Mai nhỏ nhẹ chân thành kể về cuộc sống của mình.
Đấy cũng là cuộc sống của một thế hệ mới trong vòng xoáy cuộc đời:
Sấp
mặt vào ngày
Ngày
cuốn em đi bằng email, điện thoại
Những
con chữ chạy
Đuổi
theo em, theo em
Sấp
mặt vào đêm
Cơn
mê chập chờn mộng mị
Tiếng
thở thời gian thúc giục sợi tóc lại non, cho những lo toan lại chìm xuống đáy
Ngày
mới
Chuông
điện thoại đuổi theo em theo em
Hổn
hển việc không tên, không hình thù
Vòng
xoáy
Một
người bị cuốn vào vòng xoáy như vậy, nếu không có một nội lực mạnh mẽ, một sức
trẻ dạt dào thì chắc chắn sẽ dễ dàng bị nhấn chìm. Nhưng may thay, Quế Mai tuy
còn trẻ nhưng đã từng trải nghiệm, có thể gọi là bôn ba lăn lóc trong cuộc đời. Từ Ninh Bình,
cô đã theo cha mẹ di cư vào Bạc Liêu, nỗ lực dành học bổng sang Úc học tập, rồi
do công việc, từng đi nhiều nước, tiếp xúc nhiều người trên thế giới từ xứ
tuyết đến mặt trời. Cuộc sống ấy đã thử thách, tôi rèn, đã lấy đi và cũng bù
đắp nhiều vô tận cho người con gái nhỏ bé:
Ta
đã qua bao sân ga
Ga khổ đau, ga cô đơn, ga sẻ chia, ga
vui sướng
Nghe thời gian lao về ánh sáng
Bỏ sau lưng những ga đỗ cuộc đời
Bỏ lại tuổi thơ lên hai
Chuyến tàu người
Một người từng trải như vậy có thể trở thành nhà tiểu
thuyết hay nhà thơ chắc không có gì là lạ. Nhưng Nguyễn Phan Quế Mai đã chọn
thơ. Tôi nghĩ đó là một sự lựa chọn phù hợp. Bởi lẽ một người giàu tình cảm,
một người nặng lòng với quê hương, với quá khứ, không thể không tìm đến thơ.
Trong chuyến tàu lao đi trên ánh sáng, bỏ lại phía sau một vầng trăng mười tám, một hoàng
hôn biếc nụ hôn đầu, người khách ấy luôn ngoái lại và không ít lần trở về sân ga cũ.
Không chịu cuốn vào
vòng xoáy một cách thụ động; ngay trong
vòng xoáy của cuộc sống căng thẳng, hối hả, người phụ nữ nhỏ bé ấy đã giành thế
chủ động, đã biết làm cho sợi tóc lại
non, cho những lo toan lại chìm xuống
đáy và khi ấy thơ đến với người. Thơ giúp cô cân bằng cuộc sống; thơ giúp
khám phá, nâng niu và trân trọng cuộc đời, thơ giúp tìm thấy rạng ngời hạnh
phúc từ những điều giản dị, nhỏ bé, với gia đình, với các con:
Tóc con rẽ ngôi
Chỉ mẹ quay về thời thơ ấu
Hàng hàng ngô khoai xanh như tóc con
Bạt ngàn lúa lúa thơm như tóc con
Nói cùng
con
Nhà thơ tự thuật:
Tôi du ca qua những
sa mạc đời người khô cát sỏi
Mây
Càng đi nhiều, càng đi xa,
càng đi qua những sa mạc đời người khô
cát sỏi như thế, trái tim nhân hậu của người phụ nữ càng rộng mở để đón
nhận những ước vọng mây; hạnh phúc một
lần òa vỡ; những mùa thu chưa từng sống;
một phía trời nghiêng nắng long lanh; màu sắc Việt, Luôn dâng đầy muôn
nẻo bến bờ xa…
Hình như càng đi xa, con
người càng thương nhớ những gì gần gũi. Quế Mai cũng vậy. Nhà thơ thường nhớ về
vùng quê nội nghèo khó có người cha cần cù “chiếc
áo sờn bình dị/Những yêu thương chảy nghẹn trái tim người” :
Dốc làng cheo leo bao
mùa thất bát
Dáng người còng lưng miệt mài gieo hạt
Cánh đồng nứt nẻ hốc hác tia nhìn
Cha ta vẫn tin vẫn cày vẫn cuốc
Quê nội
Và hình ảnh người mẹ nhẫn nại
đợi chờ cô trở về:
Tôi vượt không gian trở về ngày xưa
Mẹ tiễn tôi đi trời sụt sùi mưa
Nhóm bếp lửa hồng mẹ ngồi, mẹ đợi
Một bước chân đi nghìn trùng vời vợi
Mẹ
Và đây, hình ảnh của quê
hương thứ hai, sông nước miền Tây:
Sóng sánh dâng câu
vọng cổ chiều
Một bóng đò ngược tóc hoàng hôn
Người nón trắng che nụ cười rất trắng
Miền Tây
Và có thể là một hình ảnh
thân quen đâu đó mà ta thân thương gọi bằng quê
hương, với người xa xứ như Mai là quê Việt:
Mái đình cong trăng
khuyết
Triền sông mướt câu hò
Đường làng rơm thơm vào trí nhớ
…
…cánh đồng lúa chín
Rặng tre nghiêng chiều
Bến nước nghiêng trăng
Là Việt
Nguyễn Phan Quế Mai là người
phụ nữ nhạy cảm, dễ xúc động, dễ đắm say, đặc biệt là trước những vẻ đẹp bình
dị:
Hoa tay nở hoa gốm
Em cười lung linh hoa
Trắng xanh trắng xanh bốn mùa trải lụa
Nhịp gốm
Và đây, bất chợt những vẻ đẹp Hà Nội:
Hồ Gươm Hồ Tây Hồ
Ngọc Khánh những mặt hồ sóng sánh đổ vào tôi ánh sáng
Di cư vào tôi những đỏ trắng tím hồng
của hoa phượng, loa kèn, bằng lăng, sen ngát
Du mục vào tôi chợ hoa đêm Quảng Bá
những vầng nón lá sáng vầng trăng
…
Những chiều đổ lá xõa thu về
Dáng người gồng gánh vơi mỏng triền đê
Hà Nội
Từng thấm thía cái nghèo nơi
quê nội, cả nơi mảnh đất miền Tây, và có lẽ
cả sự chắt chiu những ngày du học, nên Nguyễn Phan Quế Mai trân trọng
thành quả lao động . Bưng bát cơm trên tay, nhà thơ thấu thị “dẻo thơm một hạt
đắng cay muôn phần” (ca dao) theo cách mới:
Nâng bát cơm trên
tay, tôi đếm từng hạt gạo
Từng hạt óng ánh mồ hôi của những
người thân tôi còng lưng gieo gặt
Từng hạt óng ánh thơm lời ru của bà
tôi
đơm lên từ lòng đất
Bài thơ chưa thể đặt tên
Không chỉ là với người thân thiết , ruột thịt, mà với tất
cả những người lao động, những người cần lao, Nguyễn Phan Quế Mai đều trân
trọng. Bài thơ xúc động là tên cho cả
tập thơ : Những ngôi sao hình quang gánh
là một minh chứng cho điều đó.
Tôi mua được mùa ổi
mùa sen bằng đồng bạc lẻ
Đồng bạc lặng lẽ
Thấm đẫm sương đêm, thấm đẫm mồ hôi
…
Những ngôi sao của tôi
Gánh trên vai mình hẩm hiu số phận
Vô danh giữa đời thường
Đặt vào mắt tôi bao tia nhìn mang hình
dấu hỏi
Bao
tia nhìn mang hình dấu hỏi ấy người đời đâu dễ nhận ra. Chỉ có nhà thơ, với sự
nhạy cảm cộng với thiên chức phụ nữ mới
có thể nhìn thấy chúng
và trăn trở. Và cũng chỉ có nhà thơ ấy mới thấy câu hỏi dài hơn 35 năm, sâu hơn 12.775 ngày của những Mái tóc đen không nghĩ bằng tiếng Việt:
Lật 12.775 tờ lịch
bằng nước mắt
Đi qua 35 năm bằng nỗi đau
Những câu hỏi vẫn trừng trừng mở mắt
Babylift
Tôi không ấn tượng lắm với
bài thơ Cởi gió, mặc dù nó đã từng
mang tên của tập thơ trước. Bởi vì tôi bảo thủ chăng? Trong khi Xuân Diệu từng
buộc gió:
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Vậy thì có gì là ghê gớm, khi
cô gái ngày nay cởi gió?
Mặt khác, trước khi cởi gió,
thì cũng vẫn phải nương vào gió đã. Phải nhờ gió nâng mình lên cao. Rồi tiếp
theo. Cũng phải nhờ gió trao đôi cánh. Rồi từ đấy mới cởi gió ra và bay trên ý
nghĩ. Theo suy nghĩ thông thường thì tôi cho rằng đây có thể là mong muốn, ước vọng của Nguyễn Phan Quế Mai.
Nhưng về nghệ thuật diễn đạt của bài thơ thì không thật nổi trội. Mà tôi cũng không muốn cắt nghĩa lập tức rằng đó là
khát vọng tự do, khát vọng bay, khát vọng vượt qua “những mốc giới hạn mỹ cảm đã được sắp đặt”. Còn quá sớm để khẳng
định rằng đây là tuyên ngôn nghệ thuật. Nguyễn Phan Quế Mai có thừa thông minh
và khiêm tốn để vừa nương vào cái chung, vừa chiêm nghiệm, vừa thong thả tạo ra
được cái riêng. Sự nôn nóng cách tân không phải là bản chất của nhà thơ nữ mới
xuất hiện này, mặc dù Nguyễn Phan Quế Mai đã
lặng lẽ dần hình thành một giọng điệu thơ trong trẻo, hồn hậu và có
chiều sâu trí tuệ.
Nếu so sánh với Trái
cấm, tập thơ đầu tay của Nguyễn Phan Quế Mai thì Những ngôi sao hình quang gánh, đặc biệt là hơn hai chục bài viết
sau Cởi gió cho thấy sự nỗ lực hoàn thiện và bắt đầu chín của một cây bút
giàu nội lực. Càng ngày, thơ của Nguyễn Phan Quế Mai càng khẳng định sự tìm tòi
hướng về những người bình dị, những cuộc đời bình thường với cảm nhận tinh tế
và lấp lánh trí tuệ. Trên những triều vua
đã đổ,Mồ hôi người vươn lên xanh tươi (Người làm vườn trong Đại nội), trận đói năm bốn lăm, làng tôi đói mồ chôn
xác chết (Bài thơ chưa thể đặt tên), người
đàn bà dép lê đang góp nhặt từng đồng từ bún đậu mắm tôm ( Hai phạm trù sự
thật), những người phụ nữ ngồi, Nhặt
nhạnh chắp vá đời mình từ rác vụn ( Lời của rác) là những hình ảnh thơ giàu
sức ám ảnh bạn đọc.
Thật là ngạc nhiên, một người sinh ra mới hai tuổi thì đất
nước đã hòa bình thống nhất, nhưng lại
có nhận thức khá sâu về chiến tranh:
Chiến tranh chưa bao
giờ bị bỏ quên
Chiến tranh chưa bao giờ chấm dứt
Với một cựu binh Mỹ
Bằng nhận thức ấy, Nguyễn
Phan Quế Mai đã viết những bài thơ về chiến tranh thật xúc động, thấm thía với
các bài thơ : Quảng Trị, Với một cựu binh
Mỹ, Hai nẻo trời và đất, Babylift, Bức tường chiến tranh Việt Nam…(Và mới
đây là bài thơ Đồng Lộc).
Những bài thơ viết sau Cởi
gió trong tập Những ngôi sao hình
quang gánh cho thấy Nguyễn Phan Quế Mai vẫn đang quẫy đạp, tìm tòi và bứt
phá để định nghĩa mình bằng một chấm xanh!
Hà Nội, cuối tháng
7/2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét