VŨ NHO TRẢ LỜI VTV phỏng vấn
Đọc tham luận của VN cho Hội thảo "Văn học nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam", các bạn phóng viên VTV gửi câu hỏi trước rồi đến nhà ghi hình. VN trả lời, nhưng khi nhà đài phát, mải đi chơi cũng chả biết mặt mũi mình thế nào và nói năng ra sao. May mà PV còn gửi cho một tấm hình. Những câu trả lời này là tư liệu và kỉ niệm với nhà đài.
PV- Giai đoạn 2
cuộc kháng chiến, Văn học đã có những đóng góp như thế nào vào việc xây dựng
nhân cách con người Việt Nam
giai đoạn đó?
Vũ Nho ( VN) - Mỗi thời kì lịch sử, văn học xây dựng những hình tượng
chính diện, những nhân vật điển hình của thời đại mình. Những nhân vật từ đời
sống chiến đấu gian khổ bước vào trang sách. Rồi từ đó họ lại tỏa sáng, ảnh
hưởng đến lí tưởng và phong cách sống của mọi người trong xã hội. Thời chống
Pháp, hình mẫu của người chiến sĩ là những người thanh niên nông dân giản dị,
những nông dân mặc áo lính dũng cảm chiến đấu. Ta gặp họ trong bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên:
Lũ
chúng tôi
Bọn
người tứ xứ
Gặp
nhau hồi chưa biết chữ
Quen
nhau từ buổi “một hai”
Súng
bắn chưa quen
Quân
sự mươi bài
Lòng
vẫn cười vui kháng chiến
Lột
sắt đường tàu, rèn thêm dao kiếm
Áo vải
chân không
Đi
lùng giặc đánh
Hoặc trong bài thơ Đồng chí của
Chính Hữu:
Áo
anh rách vai
Quần
tôi có vài mảnh vá
Miệng
cười buốt giá
Chân
không giày
Có một số thanh niên trí thức Hà Nội
trong bài Tây Tiến của Quang Dũng:
Tây
Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân
xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt
trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm
mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Tôi còn nhớ đã đọc tập “ Truyện các
anh hùng, chiến sĩ thi đua” do các nhà văn ghi lại. Những Giáp Văn Khương, Ngô
Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa, Hòang Hanh… rất ấn tượng. Trong văn xuôi, họ là Đại
đội trưởng Còm trong Xung kích của
Nguyễn Đình Thi, là anh hung Núp trong
“Đất nước đứng lên” của Nguyên Ngọc; là các gương chiến đấu như Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót…
Cuộc kháng chiến chống Mĩ có vô vàn những tấm gương tiền tuyến, hậu phương, miền Bắc, miền Nam , đồng bằng,
miền núi. Chúng ta có Nguyễn Viết Xuân, Nguyễn Văn Trỗi ( Sống như anh), Kan
Lịch, mẹ Suốt ( Tố Hữu), người mẹ Tà ôi ( Nguyễn Khoa Điềm), Mẫn ( Mẫn và tôi),
chị Sứ ( Hòn đất), bé Thu ( Chiếc lược ngà),
Cụ Mết, Tnú ( Rừng xà nu)… Các chiến sĩ quân đội trong Vào lửa, Mặt trận trên cao của Nguyễn
Đình Thi. Những người lính, chị em thanh
niên xung phong trong thơ của Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức Mậu, Hữu Thỉnh…
Họ
khác nhau về tuổi tác, giới tính, vùng miền, nhưng chung một phẩm chất : Hi
sinh tất cả vì độc lập tự do của dân tộc. Tất cả để toàn thắng 30 tháng Tư
1975.
PV- Xu hướng xây
dựng hình mẫu nhân vật chính diện; nhân vật phản diện trong văn học từ giai
đoạn 1986 đến nay mang những đặc điểm gì? (có thể phân tách từ 1986 đến cuối TK
20 và giai đoạn đầu TK 21 đến nay, đặc điểm từng giai đoạn, nêu một số ví
dụ)
VN: Chúng ta đều biết là sau khi chiến tranh
kết thúc, nước nhà thống nhất, đã có những sự thay đổi mạnh mẽ của đời sống xã
hội. Đặc biệt sau khi nước ta thực hiện đường lối đổi mới. Nhận thức của văn
nghệ sĩ về nhiệm vụ của văn học nghệ thuật cũng có những thay đổi đáng kể.
Trước đây, trong kháng chiến chống Mĩ, xu hướng chủ đạo của văn học là lãng mạn
cách mạng, giọng điệu là sử thi. Thơ thiên về hướng ngoại, văn xuôi cũng thiên
về ca ngợi những tấm gương anh dũng , bất khuất. Bây giờ không thế. Những người
anh hùng trận mạc, giờ đối mặt với những gian khổ, khó khăn đời thường.
Những
người lính vô danh
Sống
hào hùng suốt một thời đánh giặc
Giờ
đối mặt với cuộc đời thường nhật
Lí
tưởng thì xa cơm áo thì gần
Lê Quang Trang – Khoảng cách
Người lính trở về, họ làm công việc
bình thường:
Đi
cày và đi biển
Lên
tàu và xuống bến
Nuôi
cá và trồng rau
Chạy
chợ và gác cầu
Bơm
xe và cất vó
Phạm Đức – Cái nền
Các nhân vật trung tâm bây giờ không
phải là những chiến sĩ, những can bộ gương mẫu, nhưng anh chủ nhiệm hết lòng vì
Hợp tác. Có thể nói là nhân vật tích cực, tiêu biểu thưa vắng trên trang viết.
Thay vào đó là những con người có quá khứ hào hùng, giờ gục ngã trước sức cám
dỗ của đồng tiền. Hoặc những nhân vật cơ hội, ngày càng tha hóa. Các đại gia,
các bưởng trưởng, các lãnh đạo cấp tỉnh tha hóa, các cò mồi trung gian chạy án…Họ
thành nhân vật trung tâm để xã hội phê
phán.
Một
ví dụ về truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu ( 1983). Đẩu,
Phùng không phải là những con người lí tưởng. Họ cũng có những nhận thức giản
đơn, hời hợt trước số phận người đàn bà hang chài. Ngay cả người phụ nữ này, sự
nhẫn nhịn, cam chịu, nạn nhân của sự bạo hành kèm với những sắc sảo, trải đời,
khiến cho ca ông Bao Công và ông Nghệ sĩ cũng vỡ ra những điều mới mẻ. Chị vừa
có sự đáng thương, đáng trách nhưng cũng đáng nể, đáng phục.
Ví
dụ khác về nhânvật Bà Hiền trong “ Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải ( 1990).
Bà là người khôn ngoan, sắc sảo, yêu nước, thương con, nhưng theo một cách
riêng. Thậm chí còn tự hào “ Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư
sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao mà thành tư sản được”. Dù thế
nào, trong con mắt nhà văn, bà Hiền vẫn là “ một hạt bụi vàng “ của Hà Nội.
Ví
dụ khác nữa ở “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng ( 1985). Nhân vật Đông vốn là anh hung trận
mạc, nay trở nên như một người thừa, lạc lõng.
Tóm
lại, không có nhân vật hoàn hảo, tiêu biểu, mà là các nhân vật đời thường với
những ưu khuyết, thường thấy ở mọi
người. Đó là những con người thế sự đời tư.
Nhận
thức về vai trò nhà thơ ( nhà văn) cũng
thay đổi. Trước đây thì “ Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy/ Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và
hạ trực thăng rơi” ( Chế Lan Viên). Bây giờ thì nhà thơ là người áp tải, người
hát rong, kẻ lãng du, kẻ lang thang, kẻ ham chơi, đôi khi là gã xẩm ngọng, gã
khùng, gã khờ… Cái chất “chiến sĩ” giảm đi, chất “đời thường, dân thường” tăng
lên.
PV- Sự ảnh hưởng
của từng loại hình mẫu nhân vật đến tâm lý bạn đọc, từ đó góp phần xây dựng
nhân cách cho bạn đọc.
Chúng ta phải thừa nhận chức năng
giáo dục của văn học nghệ thuật vẫn là một chức năng cực kì quan trọng. Dù cho
bây giờ chúng ta phát hiện, công nhận thêm
các chức năng giải trí, dự báo, phản biện,… Văn học trong nhà trường đã in sâu
vào đầu óc trẻ thơ những con người đẹp, mẫu mực về lí tưởng sống, về lòng nhân
ái. Những hình ảnh người anh hùng, tiến
tiến, tích cực có giá trị giáo dục cao. Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Quang
Trung,…Các chiến sĩ của cách mạng nêu những tấm gương yêu nước, dũng cảm, trung
thành với sự nghiệp.Nhưng những hình ảnh nhân vật phản diện cũng có tác dụng
giáo dục. Sự hèn nhát của vua Lê Chiêu
Thống. Tính chất bạc tình của Sở Khanh,
sự nhu nhược của Thúc Sinh,… hay những Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, làm cho người đọc
hôm nay khinh bỉ cái xấu, cái ác…
PV - Hiện nay
nhiều nhà văn có cách khắc họa rất mạnh mẽ, sâu sắc về các nhân vật phản diện
trong xã hội đương đại, theo ông điều này có lợi cho việc xây dựng nhân cách
của bạn đọc VN không?
Như đã nói, cái tốt đẹp, các nhân
vật tích cực có giá trị giáo dục cao. Nhưng các nhân vật phản diện, nếu xây
dựng thành công, miêu tả sâu sắc cũng có tác dụng giáo dục rất lớn. Nhân cách
không phải được hình thành trong ngày một , ngày hai. Việc các nhân vật tích
cực ảnh hưởng đến sự phát triển tốt đẹp của nhân cách con người là hiển nhiên. Nhưng các nhân
vật phản diện, mưu mô xảo quyệt, cơ hội, vô cảm, lạnh lung tàn nhẫn,… cũng có
tác dụng giáo dục tích cực. Người đọc soi vào đó để lên án, để phê phán, để
tránh xa,… Trong nghệ thuật , thành công khắc họa nhân vật chính diện và thành
công khắc họa nhân vật phản diện đều được đánh giá cao.
PV - Theo ông
hướng đi nào cho văn học đương đại Việt Nam
để chúng ta có thêm nhiều tác phẩm sâu sắc góp phần hơn nữa vào việc xây dựng
nhân cách con người Việt Nam ?
Theo tôi nghĩ, cá nhân nêu lên định
hướng có nhẽ không thích hợp. Nhưng dù sao thì vẫn là một ý kiến để tham khảo.
Việc phản ánh con người Việt Nam
trong thời kì đất nước hội nhập, với biết bao khó khăn, thách thức là rất cần
thiết. Nhưng Văn học nghệ thuật luôn có những tìm tòi riêng của mình. Chiến
tranh đã kết thúc, nhưng vẫn cần những tác phẩm viết về chiến tranh với độ lùi
lịch sử cho phép để khám phá những phẩm chất kì diệu của con người Việt Nam . Để cắt
nghĩa vì sao chúng ta có thể “ từ trong máu lửa. Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” ( N.
Đình Thi). Không những thế, các nhà văn còn “ dĩ cổ vi kim”, viết tiểu thuyết
lịch sử để nói với bạn đọc về những gì chúng ta cần rút kinh nghiệm, những gì
chúng ta cần học ở cha ông để vững tin, vững bước trong thời đại mới. Chúng ta
có một khẩu hiệu rất hay là “xây” phải gắn liền với chống. Tác phẩm ngợi ca
cũng phải có cái nhìn phê phán. Ngợi ca một chiều dễ sa vào tô hồng. Phê phán
một chiều, dễ sa vào bôi đen. Tùy năng khiếu, tùy sở thích mà mỗi nhà văn có thể
chọn cho mình một góc phản ánh hiệu quả nhất, góp phần bồi đắp tâm hồn, xây
dựng nhân cách con người Việt Nam .
Vâng, ý kiến cá nhân, nhưng rất đáng để mọi người suy ngẫm.
Trả lờiXóaCám ơn Nguyễn Xuân Lai đã chia sẻ!
Xóa