Nhân kỉ niệm 100 năm sinh nhà thơ lớn Xuân Diệu, VN đưa lại một bài viết chưa đăng báo, nhưng đã in trong sách Đi giữa miền thơ của mình
XUÂN
DIỆU VỚI TRẦN ĐĂNG KHOA
V
ũ Nho
Có
thể nói nhà thơ Xuân Diệu là người có công lớn góp phần phát hiện ra tài năng
Trần Đăng Khoa, quảng bá và giới thiệu thơ Trần Đăng Khoa không chỉ ở trong
nước, mà còn cả ở nước ngoài. Chính ông đưa đoàn vô tuyến truyền hình Pháp về
làng quay phim Thế giới nhỏ của em Khoa
năm 1968.Và cũng chính ông dịch một
số bài thơ Khoa ra tiếng Pháp.
Xuân Diệu
đã cùng Huy Cận về tận Hải Dương thăm nhà Khoa, thăm cái sân "cái thế giới
đầu tiên của bé Khoa", xem xét tỉ mỉ các "nhân vật" trong thơ
Khoa. Mẹ Trần Đăng Khoa kể ; " Bác nhà báo đã mượn cây đèn bão xách ra
vườn, soi từng giàn trầu, gốc cau, luống mía và mấy cây bưởi". Chiều hôm
sau, trong khi Huy Cận nói chuyện với mọi người thì Xuân Diệu đã kéo Khoa ra
ngoài, thực hiện cuộc chuyện trò đầu tiên." Ông ngồi bệt xuống góc sân
trước cửa chuồng gà và bắt đầu chất vấn tôi. Mồ hôi ông vã đầm đìa, ướt đẫm cả
cái áo sơ mi kẻ sọc".
Nói về ảnh
hưởng lớn lao của Xuân Diệu đối với đời thơ của mình, Trần Đăng Khoa viết:
" Tôi đến với thơ hồn nhiên như em bé đến với trò chơi. Nhưng khi gặp Xuân
Diệu thì tôi hiểu được rằng thơ ca không bao giờ là trò chơi cả. Nó là một công
việc sáng tạo cực nhọc. Có thể nói may mắn cho đời tôi là tôi đã sớm gặp Xuân
Diệu".
Sau
khi Xuân Diệu gặp Trần Đăng Khoa ở quê, trực tiếp kiểm tra và xem xét hiện
tượng thơ của chú bé thần đồng, đặc biệt là sau buổi phát thanh tiếng thơ đêm 1
tháng 6 năm 1968," Xuân Diệu trở thành người thầy dạy nghề nghiêm khắc,
gần gũi, thân thiết" của Trần Đăng Khoa. Kể cũng là một sự lạ. Huy Cận
cũng gặp Trần Đăng Khoa, Chế Lan Viên cũng thế.Cả hai nhà thơ đều cảm tình, quý
mến bé Khoa. Nhưng chỉ có Xuân Diệu là gắn bó thân thiết với Khoa suốt đời.
Phải chăng có một duyên nợ riêng, tiền định giữa hai người ?
1.
Xuân Diệu với Trần Đăng Khoa
Xuân Diệu coi Trần Đăng Khoa như
cháu, như em, như đồng nghiệp và ông đã
dành không ít tâm sức cho cậu học trò đặc biệt này. Ông có riêng một "bảo
tàng" của Khoa- một thùng sắt" trông hao hao như cái tráp đồ lề của
mấy ông thợ cạo nhà quê". Tất cả thư từ, bản thảo của Trần Đăng Khoa ông
đều cất vào đó. Và ông đều đọc, đều có ý kiến nhận xét. Đây là hồi ức của Trần Đăng Khoa :"…nhận thư và
thơ tôi, bao giờ ông cũng trả lời, và trả lời ngay tắp lự. Trong thư ông nhận
xét và góp ý rất cụ thể. Ông không phân tích, bình luận dông dài, mà chỉ đưa ra
cái kết luận ngắn gọn có tính tổng quát".
Chúng ta thử
xem những ý kiến của Xuân Diệu đã tác động đến Trần Đăng Khoa như thế nào trong
những trường hợp cụ thể. Qua đó, có thể thấy được nhiệt tình, sự tinh tế, có
nghề của Xuân Diệu. Đồng thời, cũng thấy được người học trò của ông đã tiếp thu
sự chỉ bảo từ vị sư phụ của mình ra sao.
1.1.Bài thơ Hạt gạo làng ta
Trần Đăng
Khoa viết đoạn kết của bài thơ như sau:
Hạt
gạo làng ta
Gửi ra tiền tuyến
Gửi về muôn phương
Làm nên chiến
trường
Làm nên niềm vui
Các cô các bác
Đừng để gạo rơi
Khi Khoa
đưa bài thơ này cho Xuân Diệu, ông đọc xong, trợn mắt bảo: "Các cô các bác
không phải là trẻ con đâu nhé, không đợi cháu dạy khôn như thế. Cháu còn bé
phải tránh cái lối dạy dỗ. Giáo huấn- đấy là cái nhược điểm, cái bệnh chung của
nền thơ ta. Cháu phải tránh xa".
Như
vậy Xuân Diệu không chỉ chê nhược điểm của bài thơ cụ thể. Ông đã yêu cầu chú
học trò tránh lối dạy dỗ đã đành. Xa hơn, ông còn chỉ ra cái nhược điểm của cả
nền thơ ta lúc đó. Tiếp thu sự phê phán của Xuân Diệu, Trần Đăng Khoa đã làm
cho bài thơ có kết thúc thật cô đọng và hồn nhiên: Hạt gạo làng ta. Gửi ra tiền
tuyến. Gửi về phương xa. Em vui em hát. Hạt vàng làng ta.
1.2.
Bài thơ Đêm Côn Sơn
Trần Đăng Khoa viết:
Mờ mờ ông Bụt ngồi nghiêm
Sợ gì, ông vẫn ngồi yên lưng đền
Xuân
Diệu đã thay hai chữ Sợ gì thành Nghĩ gì. Quả thật hai chữ Sợ gì làm cho câu thơ không thật liền
mạch. Trần Đăng Khoa đã nhận xét về
trường hợp này:" Xuân Diệu chỉ thay một chữ Nghĩ, ông bụt đã hoá thành cơ thể sống, đã thành sự sống. Câu thơ
bỗng sinh động có thần"
Tôi
có một cách nghĩ hơi khác. Đúng là thay như thế thì được cho ông bụt. Nhưng lại
mất, lại thiệt cho bé Khoa. Cái cậu bé lần đầu ngủ đêm trong chùa, nhìn thấy
bụt cũng hãi (Tất nhiên, ma thì càng hãi). Bởi thế cậu ta mới nói to lên Sợ gì, chính là để tự trấn an. Thay mất
chữ sợ,
cũng mất luôn dấu vết sợ hãi rất là trẻ con, đặc biệt trẻ con. Chỉ còn chú Khoa
ngắm nhìn bụt, ông bụt sống mà thôi. Điều này tôi đem trao đổi với các bạn học
sinh trung học cơ sở yêu thơ. Các em đều nghiêng về ý muốn giữ lại cách viết
đầu tiên của Trần Đăng Khoa để đúng tính chất trẻ con hơn.
Lần
in lại,Trần Đăng Khoa chữa câu thơ Tỉnh ra em thấy trong đền đỏ hương thành
Tỉnh ra em thấy sáng đèn đỏ hương.
Khoa nghĩ :" Đây là đồ cải mả. Xuân Diệu đã đọc cả rồi, ông có thời gian
đâu mà đọc lại nữa". Nhưng hoá ra Trần Đăng Khoa đã nhầm. Xuân Diệu vần
đọc, đọc kĩ, lại còn mắng:" Cậu làm hỏng bài thơ rồi. Bài thơ đã toàn bích
lại mang ra vặn vẹo. Cậu chữa lợn lành thành lợn què!".
Chú
bé Khoa đã suy nghĩ nhiều vì sao Xuân Diệu lại cho rằng chú chữa chạy hỏng. Và rồi chú tự tìm ra kết
luận : Hỏng trước hết là vô lí. Đèn đã sáng thì hương làm sao còn đỏ được. Thứ
nữa là trong chùa, đèn chỉ vặn nhỏ đặt ở bệ thờ để giữ lửa, nó không sáng. Sau
hết, bụt chỉ ngồi trong "cái quầng tối mờ mờ" thì các ngài mới linh
thiêng, sống động.
Trong ba cái
lí do đó, xin được bàn góp ở lí do thứ nhất. Có phải khi mà đèn sáng thì hương
không đỏ như Trần Đăng Khoa nói hay không? Hoàn toàn không phải thế. ánh sáng
của đèn dầu, cả của đèn điện có thể có ảnh hưởng. Nhưng đèn cứ sáng và hương cứ đỏ. Tất nhiên sắc đỏ trên
đầu nén hương sẽ không giống như là sắc đỏ đó ánh lên trong bóng tối. Bởi thế
mà chỉ có hai lí do sau là có thể tin được. Mà để thoả mãn ấn tượng đỏ hương
trong đền, Trần Đăng Khoa cũng phải chấp nhận sự hi sinh nho nhỏ, phải lặp chữ đền.
1.3. Bài thơ Tiếng nói:
À
uôm ếch nói ao chuôm
Rào
rào, gió nói cái vườn rộng rênh
Âu
âu, chó nói đêm thanh
Tẻ…
te…, gà nói sáng banh ra rồi
Xuân Diệu phê"bốn câu trên cọc
cạch". Trần Đăng Khoa nghĩ mãi, không hiểu cọc cạch ở chỗ nào. Tất nhiên,
ào ào, âu âu, tẻ te mô phỏng trực tiếp tiếng gió, tiếng chó, tiếng gà. Còn à
uôm không thật rõ tiếng ếch. Nhưng cái tiếng ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước có trong tục ngữ cho phép chú bé
Khoa nghe ra à uôm và dịch ra thành ao chuôm, cũng như chú đã dịch các thứ tiếng còn lại. Cho đến tận
bây giờ Khoa vẫn không hiểu được vì sao Xuân Diệu chê. Phải chăng vì giữa tiếng của
các con vật, lại đặt tiếng gió vào, tạo ra sự không hệ thống? Và tiếng
gío vi vu ở câu thứ năm lại là một tiếng bị lặp lại ?
1.4.
Bài thơ Thơ tình người lính biển
Trần
Đăng Khoa viết:
Vòm
trời kia có thể sẽ không em
Không
biển nữa. Chỉ mình anh với cỏ
Cho dù thế
thì anh vẫn nhớ
Biển
một bên và em một bên
Xuân
Diệu không ưng ý. Ông bảo sao lại là vòm trời kia? Có nghĩa là Khoa chỉ yêu
chim, hay yêu tàu bay. Chỉ có chúng mới ở trong vòm trời chứ có cô gái nào lên
đấy.
Rõ
ràng, chỗ này Xuân Diệu đã chi li đến thái quá.
1.5. Bài
thơ ở nghĩa trang Văn Điển
Trần
Đăng Khoa viết mở đầu:
Người nổi tiếng và người không nổi tiếng
Đều gặp nhau trắng toát ở nơi này
Khoa
đưa Xuân Diệu đọc. Đọc xong, nhà thơ ngồi lặng đi. Mãi sau mới nói:" Tại
sao mấy câu đầu, cậu lại "đánh" người nổi tiếng? Ví dụ như mình ấy.
Sự nổi tiếng có tội gì đâu? Theo mình nên đổi là người danh lợi và người không
danh lợi.
Trần Đăng
Khoa thấy quả thật người nổi tiếng chỉ
là số ít. Nổi tiếng hay vô danh không phải là sự khác biệt chủ yếu của mỗi phận
người. Những năm tám mươi, trong tư duy thời ấy, sự khác biệt rõ nhất là giàu- nghèo. Khoa nói buột ý nghĩ
của mình với Xuân Diệu: " Người danh lợi và không danh lợi nghe buồn cười.
Nó được ý nhưng không thơ chú ạ!". Ai ngờ Xuân Diệu quát: " Cái gì là
thơ, không thơ hả? Không có cái gì là không thơ nếu đặt đúng chỗ. Vấn đề là
phải đặt đúng chỗ. Khi đặt đúng chỗ thì cứt cũng thơ. Ví như câu ca dao của ông
bà: Em như cục cứt trôi sông. Anh như con
chó ngồi trông trên bờ. Đấy, có gì thay thế được cái của ấy". Xuân
Diêụ tặc tặc lưỡi, mắt nhắm lại đầy khoái cảm.
Dù
vậy thì Trần Đăng Khoa vẫn không dùng khái niệm danh lợi và không danh lợi của
thầy. Nhưng cũng không nói về người nổi tiếng và không nổi tiếng. Nhà thơ nói
về hạnh phúc và đau khổ. Đó là sự chung nhất cho cả mọi loại người, giàu nghèo,
sang hèn, già trẻ…
Trên
đây là một số trường hợp Xuân Diệu góp ý cụ thể cho thơ Trần Đăng Khoa. Phần
nhiều ông chỉ đặt ra các câu hỏi. Đại loại:
- Sao cháu
lại chọn thể thơ này, mà không phải là lục bát?
- Tại sao
thế?
- Thế
còn…sao cháu lại viết thế?
- Tại sao
lại đội sấm, đội chớp? Ông sấm ông ấy đánh cái xoẹt. Thế cậu muốn bố cậu chết
hay sao mà bắt ông ấy đội sấm?
- Vẫn mưa
mà đất trước nhà vẫn khô. Khéo đất nhà cậu có ma chắc?
Những gợi ý, những câu hỏi như
thế làm cho Trần Đăng Khoa suy nghĩ, xem
xét và tự hoàn thiện thơ mình.
Tuy
nhiên, sẽ là phiến diện khi chỉ tìm hiểu những gì Xuân Diệu chê Khoa, vặn hỏi
Khoa. Một người thầy giỏi là người thầy biết chê, nhưng cũng phải biết khen
đúng, biết động viên, khích lệ học trò của mình. Xuân Diệu đã rất công bằng và
nghiêm túc khi biểu dương Khoa. Cần phải nhớ lại là ban đầu Xuân Diệu không
thích nống lên các tên tuổi trẻ em. Xuân Diệu "không hoan nghênh, không đề
cao. Cứ vài năm lại ồ à, đưa lên đào kép mới rồi lụi dần, mất dần".(Văn
Hồng. Mười năm ghi nhận. Nxb Kim Đồng1997,tr.165). Xuân Diệu về gặp Khoa qua
màn dàn dựng của các đồng chí huyện đoàn để tránh cho Khoa sự kiêu ngạo. Nhưng
khi đã thẩm định, đã tin Khoa thì Xuân Diệu cũng không dè sẻn những lời khen.
1.6.
Bài thơ Bến đò
Xuân
Diệu dịch sang tiếng Pháp và khen gọn trong mấy chữ 'hay!sâu sắc!". Phải
chăng hay, vì đây là bài thơ hoài cảm về một thời có những kỉ niệm ấu thơ gắn
với bến đò. Sâu sắc vì Trần Đăng Khoa đã nói về tuổi thơ ai cũng chỉ có một
lần, về tâm trạng của chú bé thành người lớn:
Gió
thổi cồn cào mặt nước
Mất
một nỗi gì không thể tìm lại được
Ta
đi, lòng vẫn ở nơi đây
Ai
cũng chỉ có một lần
Cái
thuở thơ ngây…
1.7. Bài
thơ Em dâng cô một vòng hoa
Trần Đăng Khoa viết :
Trưa nay em đến thăm cô
Lúa chiêm chín rực đôi bờ phi lao
Sau đó, tự Khoa sửa lại thành Nắng chiêm chín rực đôi bờ phi lao. Viết
lúa chiêm là viết kiểu thấy gì ghi
nấy. Nắng chiêm là nắng vụ chiêm. Nắng đã từng ửng trong thơ Hàn Mặc Tử ( Trong
làn nắng ửng, khói mơ tan - Mùa xuân chín). Nay thì nắng chín trong thơ Trần Đăng Khoa. Hơn nữa lại là
nắng chín rực, màu sắc thật chói lọi. Câu thơ bỗng ảo và thanh thoát hơn. Nhà
thơ Xuân Diệu khen học trò là có sáng tạo.
1.8.
Bài thơ Tiếng nói
Xuân
Diệu chê bốn câu đầu cọc cạch, ông khen" hai câu cuối sáng tạo". Đáng chú ý là ông khen
trước rồi mới chê sau. Hai câu sáng tạo đó là:
Vi
vu gió nói mây trôi. Thào thào trời nói xa vời mặt trăng
Mây với gió, trăng với trời. Gió vi
vu thì mây cũng trôi theo gió cuốn. Còn cái tiếng thào thào thì quả là mơ hồ và
xa lăng lắc. Như là vọng về từ mãi tận cung trăng. Có phải Xuân Diệu khen vì
thế chăng?
1.9.
Bài Côn Sơn chỉ c ó 4 câu:
Sáng
đứng đỉnh Côn Sơn
Hương đồng thơm trong túi
Chiều xay thóc góc nhà
Tóc lại bay gió núi
Xuân
Diệu khen bài thơ có" niềm vui lí thú của người thơ" và "có
những cánh cửa mở rộng ra như thế". Nhân đấy ông cũng khen ngợi những câu
thơ trong bài Lời của than. Đó là
những câu :
Tôi biết từng đoàn sứa
Giương ô đi trong hội lân tinh
Những câu tả bác công nhân:
Có cái mũ
đội đầu
Ngồi lên
không bẹp
Sớm sớm
lên tầng
Măt
trời mọc dưới chân như một giọt
phẩm đỏ
1.10.
Trong bài thơ Nhớ và nghĩ, Trần Đăng
Khoa viết:
Tiếng cây lách chách đâm chồi
Tiếng người trò chuyện với người yêu thương
Xuân Diệu coi hai câu thơ này
là"những câu thơ rất sinh động".
1.11. Bài
thơ Tháng Ba
Sau
làn mưa bụi tháng Ba
Lá
tre bỗng đỏ như là lửa thiêu
Nền
trời rừng rực ráng treo
Tưởng như
ngựa sắt sớm chiều vẫn bay
Xuân
Diệu khen bài thơ " tổng hợp nhiều
vẻ của thiên nhiên, đưa đến một hình tượng, một ấn tượng đặc biệt; trên trời
vẫn còn vệt ngựa, lửa sắt của Thánh Gióng".
1.12.
Xuân Diệu khen chi
tiết thơ
Bóng cau ngã xuống cây đàn
Lung lay
Như bàn tay
Xoá đi những âm
thanh dơ bẩn
Ông
viết:" Tôi nghĩ: làm thơ như nấu
món ăn. Đúng vị, hợp vị thì ngon. Cái bóng cau đưa vào lúc này thật là đúng
lúc, đúng chỗ; mà nó có hình nét, lại có tâm hồn".
1.13. Xuân
Diệu còn khen Trần Đăng Khoa"không lìa gốc làng quê, các giác quan rất
tinh" và "Lòng yêu ruộng đồng mọc rễ sâu chắc trong lòng Khoa".
Điều ấy thể hiện trong bài thơ Hương đồng.
Cụ thể là trong những câu thơ:
Nắng
nồng chiều nay
Mùi bùn
đang ngấu
Mùi phân
đang hoai
Vôi chưa ta
hẳn
Còn hăng
rãnh cày.
…
Trời đất
đêm nay
Như chim
mới hót
Như rượu mới cất
Như mật mới
đông
Đi trong
ngào ngạt
Niềm vui
gieo trồng
Thịt da ta
cũng
Toả hơi
ruộng đồng
1.14.
Xuân Diệu khen, rất khen lời thơ của Trần Đăng Khoa. Có thể nói là những đánh
giá rất cao của một ông thầy vốn khe khắt như đã thấy ở phần đầu bài naỳ. Xuân
Diệu viết:" Thơ Khoa lời viết theo lối cổ điển, nghĩa là không dàn trải,
mà gọn ghẽ, do biết chọn chữ đúng, chính xác, nên không rườm rà. Khoa biết dùng
những lời khêu gợi".
Khảo
sát những hiện tượng khen, chê của Xuân
Diệu với Trần Đăng Khoa, chúng tôi muốn trước hết thấy được sự khen đúng, chê
đúng của nhà thơ. Mặt khác muốn cùng nhau xem lại cách thức mà Xuân Diệu đã bồi
dưỡng, dìu dắt Khoa, một chú bé thần đồng. Sự tinh tế của Xuân Diệu, kết hợp
với sự cẩn trọng, hơn nữa vừa tràn đầy tình cảm yêu thương lại vừa nghiêm khắc,
và đặc biệt là sự gần gũi, thân ái đã làm cho mối quan hệ thầy trò trở nên tri
kỉ tri âm.
Làm
việc nhiều với Xuân Diệu, Trần Đăng Khoa được Xuân Diệu chỉ bảo, khuyến khích.
Nhưng cái được lớn nhất của Trần Đăng Khoa chính là Khoa đã học được cách làm việc, cách lao động nghệ thuật của thầy. Trần Đăng Khoa giãi
bày:" Tôi thường sửa chữa lại, đánh vật với từng chữ, theo đúng cách lao
động nghệ thuật của Xuân Diệu".
2. Trần
Đăng Khoa với Xuân Diệu
Nếu
chỉ xem xét ảnh hưởng của ông thầy với người học trò bé nhỏ thì e rằng chưa
thấy được mối quan hệ đặc biệt này của hai nhà thơ xuất phát cách nhau gần một
nửa thế kỉ. Chúng tôi muốn tìm hiểu xem Trần Đăng Khoa đã thụ giáo những điều
chỉ dạy của thầy mình, đồng thời ảnh hưởng, chính xác hơn là tác động lại thầy
mình như thế nào.
Trước
hết xét về mối quan hệ tình cảm. Hồi tưởng lại cách cư xử của Xuân Diệu, Trần
Đăng Khoa viết:" Trong quan hệ ông đối xử với tôi rất bình đẳng. Ông gọi
tôi bằng cháu, đôi khi hứng lên bằng em. Nhưng trong sáng tác, ông coi tôi như
một người bạn đồng nghiệp. Còn tôi thì luôn biết mình là một người học trò nhỏ
bé của ông".
Ban
đầu, Trần Đăng Khoa rụt rè. Nhưng không có nghĩa là mặc cảm, thiếu tự tin. Ngay
khi Xuân Diệu đang là ông Tây trong mắt dân làng, Xuân Diệu cưỡi ô tô về quê,
chất vấn chú bé Khoa. Bé Khoa cũng đã chất vấn lại ông Tây khi chú trả lời:
Xuân
Diệu:- Thế còn ông trời mặc áo giáp đen. Sao cháu lại viết thế?
Trần
Đăng Khoa: - Vì cháu nghĩ đến Thánh Gióng. Ông Thánh Gióng ra trận. Thế bác có
biết ông Thánh Gióng không?
Tất
nhiên là bằng sự nhạy bén, Khoa đã nhận ra sự ngớ ngẩn của mình. Song chính sự
mạnh dạn này và thái độ dân chủ, tôn trọng của Xuân Diệu đã khuyến khích Trần
Đăng Khoa hỏi lại và sau này là góp ý lại cho thầy mình.
Trong
những lần gặp Xuân Diệu, Khoa vốn nhạy cảm nên nhận ra ngay nhiều nét buồn xa
xăm của ông. Khoa không biết nói gì hơn là những câu an ủi:" Ôi, chú cứ lo
xa. Chứ chú khoẻ lắm. Cháu trông chú đang vượng đấy !". Hoặc phần nhiều
thì Khoa cười. Cái cười xuế xoá trong một câu đùa. Nhưng câu nói đùa ấy lại làm
Xuân Diệu rất vui. Phải chăng gặp Khoa còn trẻ, còn non, gặp sự hồn nhiên cũng
làm cho Xuân Diệu vui. Nhất là chú bé lại là người chịu chuyện, biết lắng nghe.
Cái chú bé nhà quê áo quần nhếch nhác nhưng có tài và thật thà, được Xuân Diệu
mặc nhiên coi như "một quảng đại quần chúng" để ông diễn thuyết. Cậu
ta" chỉ im lặng ngồi nghe rồi cười trừ". Rồi không nén được, cậu ta
'bật cười". Cái cười hồn nhiên và tự nhiên đã 'lây" sang Xuân Diệu."Ông
cũng cười. Nụ cười làm gương mặt Xuân Diệu dịu hẳn lại". Nhưng Trần Đăng
Khoa không chỉ nghe chú Diệu góp ý, tìm cách làm cho chú ấy vui. Nhiều khi, hồn
nhiên, Khoa cũng làm cho Xuân Diệu ngớ ra, làm cho Xuân Diệu giật mình.
Chuyện xoay
quanh những trường ca của Trần Đăng Khoa và của người khác. Đầu tiên, Xuân Diệu
im lặng, không ỏ ê gì, cứ như "một vách núi bí hiểm, không dội lại một
tiếng vang nào". Rồi Xuân Diệu mượn lời Tố Hữu mà chê Trần Đăng
Khoa:" Này, chú Tố Hữu gửi lời chê Khoa đấy nhé. Chú ấy bảo Khoa dạo này
oai lắm. Khoa đang múa giáo giữa đường đấy!". Khi Xuân Diệu đang cao hứng
giảng giải về trường ca, và tuyên bố dứt khoát"Xuân Diệu không có ca đâu
nhé", thì Trần Đăng Khoa dẫn chứng:
- Nhưng chú cũng đã ca rồi đấy chứ.
Hội nghị non sông, Ngọn quốc kì, Mị Châu Trọng Thuỷ.
Xuân Diệu ngỡ
ngàng."Ông ớ ra một thoáng". Rồi Xuân Diệu lấy lại thế chủ động:
- À cái đó tớ viết bằng hồn. Còn các
cậu, các cậu viết bằng gì? Toàn là những sự kiện. Những thông tấn báo chí. Cái
đó không phải là thơ đâu nhé! Tớ chẳng ngửi thấy gì cả.
Trần
Đăng Khoa không cãi. Nhưng rõ ràng ông thầy đã phải phần nào nguỵ biện và chống
chế, khi ông trò tìm đúng gót chân A sin của thầy.
Khi
Trần Đăng Khoa thật thà khen Xuân Diệu, khen đúng, Xuân Diệu tặng lại người học
trò lời cám ơn và ban khen"có con mắt xanh". Trên đà chân thật, Trần
Đăng Khoa bộc bạch:
Cháu
rất thích tập thơ này. Nhưng không hiểu sao vẫn cứ tiêng tiếc. Cháu thấy có
nhiều bài dở chú ạ.
Xuân
Diệu đã từng dạy Trần Đăng Khoa:" Cái gì hay thì khen. Không hay thì im
lặng, lờ đi. Im lặng cũng là một lời chê đấy". Có lẽ Trần Đăng Khoa không
muốn áp dụng cái qui tắc này với người thầy gần gũi của mình. Chỉ cần nói có
nhiều bài trung bình, nhiều bài không hay thì đã gây xốc cho người viết. Đằng
này, Trần Đăng Khoa lại thẳng tuồn tuột nhận xét"có nhiều bài dở". Có
điều là Xuân Diệu không tranh cãi với Khoa. Ông lại đánh lảng bằng cách ví von
với việc chạy đồ đạc khi nhà cháy. Cứ vứt ra rồi sau nhặt nhạnh, chọn lọc lại.
Ngay lúc đó, Khoa mụ mị, Khoa im tịt, Khoa tự thấy mình ngu. Nhưng rồi Khoa ra
khỏi mê cung Xuân Diệu và sực tỉnh:" in thơ tập và cháy nhà là hai việc
rất khác nhau"
Ta
thấy rằng Trần Đăng Khoa không bao giờ tin ngay những điều thầy dạy. Bao giờ
Khoa cũng trăn trở, cũng suy nghĩ xem liệu ông thầy có đúng thật không? Liệu
bản thân Khoa có quá dở không khi tiếp thu những chỉ dạy của thầy? Chính cái
thói quen làm việc như thế này với Xuân Diệu đã tạo cho Trần Đăng Khoa tự tin, dám đối thoại hàng loạt vấn đề văn
chương trong cuốn sách nổi tiếng"Chân dung và đối thoại " sau này.
Trở
lại quan hệ của Trần Đăng Khoa với Xuân Diệu. Khoa rất hồn nhiên góp ý cho thầy
mình. Đó là khi đọc bài thơ Dấu nằm
mà Xuân Diệu chép tay trong dạng bản thảo. Đọc xong, Trần Đăng Khoa đã chê
người yêu của Xuân Diệu, chứ không phải chê trực tiếp thơ ông. Cũng là một sự
láu cá của chú bé Khoa.
- Thơ chú
hay lắm, nhưng cái cô gái này rất dở. Không thể mê được.
- Và Xuân
Diệu đang mê cô gái, đang mê thơ mình, bỗng kinh ngạc:
- Sao, cậu
nói sao?
- Lí lẽ
của chú bé nhà quê khá thẳng thắn và chắc chắn:
- Cháu nghĩ, con gái phải gọn ghẽ, kín đáo. Con
gái mà nằm ngủ tênh hênh ra là hỏng rồi. Em gái cháu mà nhơ thế thì mẹ cháu
giết. Cái cô gái này đã đi xa rổi, mà còn để nguyên dấu vết của mình bề bộn
trên giường, thế là cô gái vô ý, là đoảng, chú ạ!
- Cậu chả hiểu gì cả. Yêu nhau rồi, say đắm
nhau rồi thì còn gì là đoảng nữa. Đến cái mùi hôi nách của nó cũng thành hương
nhài hương huệ(…)Mà cậu đã yêu chưa?
Khi
Khoa thú nhận chưa yêu, Xuân Diệu kết luận là anh chàng không thể nào hiểu được
Xuân Diệu, cái người còn rất trẻ đã yêu nhiều, đã từng viết Yêu là chết ở trong lòng một ít.
Khoa
có cái lí của Khoa. Xuân Diệu cũng có cái lí của Xuân Diệu. Và rốt cuộc, ông
thầy vẫn cứ in Dấu nằm trong tập Thanh ca, mặc cho có cậu học trò chê người yêu
của mình là đoảng.
Cần
phải lưu ý một điều, bản thân Trần Đăng Khoa thú nhận"không hiểu nhiều lắm
về đời tư Xuân Diệu". Song, hình như Khoa cũng linh cảm về cái cô gái
trong bài thơ kia chỉ là một cô do Xuân Diệu tưởng tượng ra, lập tứ ra từ câu
ca dao Nam bộ: Ghe lui để lại dấu dằm. Người yêu đâu vắng, chỗ nằm còn đây. Câu
ca dao nói chỗ nằm, chứ không nói dấu nằm. Xuân Diệu biến cải, khai thác dấu
nằm, nên ngay từ đầu đã sơ hở, đã biến cô gái thành người đoảng. Mà Trần Đăng
Khoa thì lại giỏi quan sát, nhạy cảm về chi tiết.
Một
lần nhìn Xuân Diệu lụi cụi nấu cơm, tâm trí chú bé vẳng lên những câu thơ thân
thuộc:
Em
ngồi ríu rít ở sau xe
Đời
vui khi được có em kề
Em
bóc anh múi cam
Em
chăm anh miếng nước
Em
có tài nấu nướng
Anh
có tài ngợi khen
Và
đây là những câu hỏi:
-Người con
gái ấy là ai? Và cái cảnh đầm ấm ríu rít ấy ở đâu? ở trong đời hay ở cõi mộng?
Chính
những câu hỏi không lời giải đáp này đã khiến cho Trần Đăng Khoa nghiêng về ý
"trong cõi mộng". Và vì thế, mà thật thà chê cô gái trong bài
thơ Dấu
nằm chăng?
Dẫu
sao thì trong quan hệ chú cháu, trong quan hệ của hai nhà thơ đã có một sự chân
tình, có một sự bình đẳng, có sự qua lại hai chiều chứ không phải một chiều.
Nói theo cách nói dân gian thì đó là quan hệ có đi có lại. Chính mối quan hệ
này đã làm cho mối cảm tình của hai người luôn luôn phát triển và ngày càng bền
chặt.
Tôi
không được biết tình cảm của Trần Đăng Khoa khi Xuân Diệu mất. Nhưng đọc chân
dung Xuân Diệu do Trần Đăng Khoa viết, thấy rõ sự biết ơn, sự ngưỡng mộ người
thầy, người bạn lớn; thấy rõ tấm lòng của một nhà thơ với một nhà thơ. Chắc hẳn
Xuân Diệu cũng cười vui, nếu ông đọc
những dòng Trần Đăng Khoa viết về mình. Và cả những dòng bàn thêm này nữa.
Tháng
3 năm 2001
-----------------
Những tư liệu dùng cho bài viết
trích từ:
- Văn học và tuổi trẻ số 1.
- Chân dung và đối thoại.
- Thơ em Khoa của Xuân Diệu.
- Một số lời kể trực tiếp của Trần
Đăng Khoa.
Cảm ơn chủ nhà đã cho đọc bài viết rất hiện thực về hai nhà thơ lớn
Trả lờiXóaCám ơn bạn đã ghé trang và để lại chia sẻ!
XóaHy vọng bạn sẽ có nhiều bài viết hay
Trả lờiXóamáy tính hà nội
màn hình máy tính
mua máy tính cũ
màn hình máy tính cũ