Thứ Năm, 18 tháng 2, 2016

Hai lần ăn Tết xa nhà





Hai lần ăn Tết xa nhà
                                                             Nguyễn Hoàng Sơn

Đúng ra phải gọi là hai lần ăn Tết xa…vợ thì chính xác hơn! Bởi vì từ khi tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân rồi về nhận công tác tút mút mãi tận tỉnh miền núi Hòa Bình- chỉ cách  trung tâm Hà Nội 76 km, nhưng bấy giờ (những năm Bảy mươi của thế kỷ trước) là xa lắm, xa “tít mù tắp”- rồi lấy vợ, sinh con, tôi đã có vô khối cái Tết xa bố mẹ, xa quê hương…Năm 1976, đang là cán bộ Sở Xây dựng của tỉnh mới Hà Sơn Bình     (Hà Đông- Sơn Tây- Hòa Bình hợp nhất) tôi được nhận về làm phóng viên Tiền phong…
1/ Khoảng cuối năm 1978, tôi nhận lệnh vào Thành phố Hồ Chí Minh thường trú. Cũng là lần đầu tiên “vô nam” nên không tránh khỏi hồi hộp, pha chút lo lắng.Nhưng lệnh là lệnh, tết nhất đến nơi rồi vẫn cứ phải đi! Nấn ná mãi rồi cũng đành khăn gói lên đường, may có nhà báo Đăng Trung cùng lên tàu nên cũng đỡ buồn. Hồi ấy hình như chưa có tàu tốc hành, chỉ có một loại tàu gọi là “tàu chợ”, chạy Hà Nội- Sài Gòn cũng mất tới 3 ngày 3 đêm, ê ẩm, chật chội, nhưng mua được vé cũng phải đủ thứ giấy tờ này nọ, tất nhiên chỉ  là vé ngồi, đúng “tiêu chuẩn” phóng viên! Khoảng 8h tối, ra ga Hàng Cỏ, lên tàu trong ánh điện tù mù và rất đông hành khách đủ loại với quang gánh, thúng mủng, dưới cái nhìn vô cảm, soi mói nhưng hờ hững của nhân viên nhà ga. Sân ga tối tăm, ơi ới tiếng gọi nhau, tiếng la hét, cả tiếng chửi tục nữa, với những đoàn tàu im lìm, dài, dài như vô tận, bất chợt thét lên một tiếng còi khiến khách đang tìm đường lên toa phải giật mình! Tìm được toa xe ghi trong số vé, len lỏi giữa những bao đồ lỉnh kỉnh, qua những ánh mắt lạnh lùng nhưng đầy cảnh giác, đến được ghế ngồi của mình, chúng tôi mới thở phào. Ơn giời! Thế rồi suốt 3 ngày 3 đêm khi gà gật, khi ngóng ra ngoài cửa sổ nhìn phong cảnh giật lùi, có lúc đột nhiên trong toa tối om , lâu sau mới biết tàu đang chui qua đường hầm…Không hiểu sao tôi vẫn nhớ như in cảnh tàu qua ga Quảng Ngãi, dừng lại rất lâu lúc trời đang có mưa to. Có phải vì Quảng Ngãi là quê anh rể tôi, chị tôi đã theo chồng về đấy dạy học ngay khi đất nước thống nhất? Trời mù mịt, những người đàn bà mặc áo mưa xăm xắn mang cơm, mang gà luộc cả con còn bốc khói đến từng toa, “phục vụ” rất tận tình. Quảng Ngãi nổi tiếng được khách đổi tên là “ga Gà” trên tuyến đường sắt Bắc Nam. Nhưng tôi không dám mua ăn.Tôi sợ. Sợ gì? Sợ mất vệ sinh, sợ…bị đầu độc, qua vùng mới giải phóng, biết đâu ấy…! Tôi đành bằng lòng với xuất cơm sơ sài trên tàu với chút đậu đũa luộc, vài miếng thịt mỡ. Mà gà thì không đắt lắm, hình như chỉ 1 đồng ( tiền bấy giờ) một con, không phải không thể mua được! Vậy mà tôi chỉ nuốt thầm nước bọt, nhìn trộm nhà báo Đăng Trung  to béo đang khoái chá thưởng thức nửa con gà luộc bằng hàm răng chắc khỏe của mình…

Sài Gòn hồi ấy dường như đang thu mình lại cho giống với người anh em Hà Nội , chỉ phô bày ra những gì nhếch nhác thời hậu chiến? Có lẽ vì thế chúng tôi không mặc cảm lắm khi đi hội họp, công tác và hòa hợp khá nhanh với cảnh và người trong ấy. Tôi ghi lại cảm nghĩ của mình trong một bài thơ: Dòng nước đen ngòm xói bóng nhà tôn trên mặt rạch/ Phiên chợ ồn ào kẻ bán người mua/ Thì thầm những tin đáng lo/ Giá gạo tăng…/ Giá dầu…/ Giá củi…/ Bọn cướp cưỡi mô-tô giật đồng hồ…/Những tâm hồn tối đen khấp khởi/ Thành phố có gì thay đổi/ Hai năm hòa bình đi qua?/ Bớt tiếng hon- đa/ Những ngả đường tên mới chồng lên tên cũ/ Những biệt thự trở thành công sở/ Sách/ Báo/ Cửa hàng…/Nhưng còn gì nữa?/ Tôi đi ngang một câu lạc bộ/ Bồi hồi nghe tiếng hát cất lên/ Những thiếu nữ mắt đen/ Cổ quàng khăn đỏ/ Em múa hết mình, em hát hết mình/ Mắt không một thoáng buồn quá khứ/ Tôi biết các em/ Còn ở nhà tôn/ Còn làm nghề cũ/ Đêm còn nghe tiếng má thở dài/ Ca cẩm giá hàng mắc mỏ…/ Nhưng những bài hát như có lửa/ Khơi dậy tâm hồn các em/ Những ngả đường Trường Sơn/ Những bản làng cheo leo/Những vùng rừng xa xôi…/ Trong đời em không thể nào thiếu nữa// Không chỉ màu khăn đỏ/ Tôi tin ánh mắt em nhìn thơ ngây ( Thành phố trẻ-1978)…Gần một năm trời thường trú ở cái thành phố lớn và đông đúc nhất nước ấy, tôi còn nhớ được gì? Nói chung là nhạt nhòa. Hơn ba mươi năm, vắt qua hai thế kỉ rồi, còn gì! Thế mà vẫn nhớ một lần đón anh Thái (mới mất năm ngoái, chồng chị Bích Hậu) vào chơi, cùng ngồi uống rượu chân cầu Nguyễn Văn Trỗi ( cầu Công Lý cũ) nghe anh kể chuyện nhà chuyện cửa…Nhớ anh Nguyễn Đình Thiềm, ủy viên BBT, vào công tác rồi “chiêu đãi” mấy anh em phóng viên mỗi người một chai bia 33 vỉa hè. Nhớ phóng viên Phạm Yên bữa ấy, mượn hơi bia, đỏ mặt tía tai đòi ra Bắc vì nhớ…vợ, tôi cũng hùa theo, ai ngờ được anh Thiềm gật đầu!...Nhớ khi chuẩn bị bay ra Hà Nôi, tôi rủ phóng viên Ngọc Báu cùng đi, tìm mua một cái quạt Nhật(cũ) xách theo . Chủ quán đòi 130 đồng, giá cả hồi ấy( mới đổi tiền) là rất đắt, khiến tôi ngần ngừ. Ngọc Báu ra vẻ thành thạo, thò tay trái nắm núm quạt rút ra rút vào rồi gật gù: quạt tốt đấy, thế là trả đúng giá rồi xách quạt về…Nhớ buổi tối giáp tết được anh Đăng Trung đèo xe hon đa (cơ quan đại diện có một cái xe công, tôi nhớ hình như là xe nam?) đi chơi chợ Tân Định. Đường phố đông đúc và nhếch nhác, tôi chỉ nhớ anh Trung điều khiển xe rất thành thạo và tự tin, vừa đi vừa chỉ trỏ giới thiệu này nọ , tôi chỉ nghe và vâng dạ đầy thán phục. Chỉ đi chơi suông một vòng rồi về, anh Đăng Trung vào nhà tắm xì sục, tôi thì vào phòng ngủ tầng hai nằm cò queo, nhớ miền Bắc, nhớ vợ. Bữa cơm chiều giáp tết (tập thể) do chi Hằng nấu với món “trứ danh” quen thuộc là cùi dừa kho đen đen, sạm sạm chan canh suông, đã hết veo từ lúc nào…Nên nhớ bấy giờ là năm 1978, còn cách rất xa thời Đổi Mới mười năm sau, với rất nhiều thăng trầm đang còn ở phía trước…
2/ Năm 1988, sau rất nhiều hồi hộp, chờ đợi, tôi nhận được quyết định cử đi học trường Đoàn tại CHDC Đức (cũ) 10 tháng, do đích thân TBT Dương Xuân Nam trao tay. Hình như đó là một ngày cuối tháng Tám Dương lịch thì phải? Còn nhớ khi tôi đến cơ quan từ biệt mọi người để ra sân bay thì nghe tin vơ chồng nhà thơ- nhà viết kịch Lưu Quang Vũ- Xuân Quỳnh vừa tử nạn trên đường từ Hải Dương về Hà Nội? Nhà ga sân bay Nội Bài khi đó chưa mở rộng, chật chội, ồn ào, đại khái cũng na ná… ga xe lửa Hàng Cỏ vậy. Thoát qua cửa kiểm soát hộ chiếu, vé máy bay, tôi một mình đối diện với cuộc kiểm tra hành lý mang theo. Tất cả gói bọc to nhỏ buộc chằng rất kĩ từ ở nhà đều phải mở ra, những áo phông cành mai, cá sấu, những quần bò vừa dài vừa rộng, hàng đùm giây đeo chìa khóa hình con tôm, con bướm xanh đỏ đủ kiểu vợ tôi mua từ phố Hàng Khay…đều lạnh lùng phơi bày trước cặp mắt soi mói của nhân viên hải quan và người chủ hàng là tôi với đôi tai đỏ dừ! Bỗng tôi nghe tiếng hỏi khá nhẹ nhàng :” Anh ở báo Tiền Phong? “ Tôi vâng và ngạc nhiên nhìn người nhân viên hải quan trẻ trung trong bộ đồng phục lịch sự. “Em là…, em anh Đình Trung ở báo Thiếu niên Tiền phong. Thôi anh gói lại hàng hóa và đi được rồi!” Tôi bàng hoàng như trong mơ, cảm ơn anh rối rít, vứt tuốt tuột mớ hàng hóa “hầm bà làng” vào trong thùng giấy và buộc lại, bước vào phòng đợi lên máy bay…Đến sân bay Vơ-nu-cô-vơ ( Nga-bấy giờ còn là Liên Xô) transit  từ máy bay Bô-ing sang loại máy bay nhỏ hơn để đến Đức, chúng tôi còn phải trải qua một lần kiểm tra nữa. Những cô nàng hải quan Nga, mắt xanh mỏ đỏ, móng tay nhuộm tím thẫm, điềm nhiên và kênh kiệu, khinh khỉnh nhấc từng bó… phụ tùng mới cứng trong thùng hành lý của chị em, vứt sang bên cạnh! Nguy hơn nữa là không tìm đâu ra …chỗ để “giải quyết nỗi buồn”, khiến chúng tôi, nhất là ba thành viên nữ trong đoàn , gắng gượng đến bạc mặt…May- lại may!- lúc đó trưởng đoàn chúng tôi là Trần Viết Hơn (cán bộ Phòng Tổng hợp, TƯ Đoàn) tình cờ gặp được một người bạn đang học tại Mát , ra sân bay đón ai đó. Anh này tốt bụng và  thạo tiếng Nga, nói liến láu một tràng với mấy cô hải quan Nga. Sau một hồi trao đi đổi lại, các “người đẹp” gật đầu , đài các cho phép gói ghém lại tất cả những thứ vừa phải mở ra tênh hênh…Thoát! Khoảng hai hoặc ba tiếng sau, chúng tôi đã có mặt ở sân bay Béc- lin. Sân bay buổi chiều, đương giờ vắng khách. Chúng tôi lại gặp phiền phức vì tính nguyên tắc ,  quan liêu nổi tiếng của người Đức, cùng với đống hàng hóa rẻ tiền nhưng công phu tha lôi từ Hà Nội qua…Đương vơ vẩn không biết làm sao thì có một gương mặt phụ nữ Việt ngó vào tìm kiếm dáo dác. Ai đó gọi :” Hòa! Hòa!”, người phụ nữ bật reo, lao vào trong phòng. Đó là Hòa (cháu ngoại nhà văn nổi tiếng Nguyễn Tuân), phiên dịch viên tiếng Đức, được nhà trường cử đi đón chúng tôi. Hòa trao đổi một lúc với các cán bộ mẫn cán người Đức thì chúng tôi và đống hàng hóa được ra ô tô với cam kết để  nguyên “chúng” cho nhân viên hải quan sẽ đến làm thủ tục kiểm tra tại trường vào đầu tuần sau. Thôi kệ, đến đâu hay đến đấy! Tôi trút hết mọi lo lắng, ngó qua cửa ô tô nhìn ngắm mây trời nhởn nhơ và những cánh rừng thưa hai bên đường đương ngược chiều xe chạy. Người ta bảo: CHDC Đức có khí hậu khá ấm áp ở châu Âu, mùa đông thi thoảng tuyết rơi nhưng không lạnh lắm ? Có lẽ chúng tôi đương được sống những ngày thời tiết đẹp nhất ở đây…
Trường chúng tôi đến học là Trường cao cấp của Đoàn thanh niên Tự do Đức (FDJ)
Đào tạo  cán bộ không chỉ cho nước Đức ( cả Đông và Tây) mà gần như cho phần lớn thế giới bấy giờ ( châu Âu : Liên Xô, Phần Lan, Đan Mạch, Thụy Điển…; châu Á: Việt Nam, Mông Cổ, Lào, Cam-pu-chia, hình như có cả Triều Tiên…; Trung Đông có Ê-ti-ô-pi…; Châu Phi có Nam Phi …;châu Mỹ có Chi lê, Hoa kỳ…). Đoàn Việt Nam ở tầng hai, cùng tầng và gần gũi với đoàn Lào, đoàn Cam-pu-chia. Những ngày đầu thật ấm áp, quấn quýt. Nên nhớ là dù đã có 3-4 khóa gì đó có sinh viên Việt Nam tại trường nhưng đây là lần đầu tiên có nữ sinh viên, 3 nữ cán bộ Đoàn tham gia học tập, thật thân mật, an ủi cho 7 anh chàng “đực rựa” theo cùng. Nhưng tình cảm cũng rất dễ thiên vị: Bích Ngọc có thiện cảm với Tiến Thành; Thoa và Đông ( không nhớ họ) thì cùng săn sóc A Dân, cán bộ dân tộc huyện đoàn Sa Thày ( Kông Tum?) có lẽ vì cùng là cán bộ phía Nam xa nhà? Nhìn cảnh họ gần gũi, ân cần với nhau trong đợt đi thực tế thu hoạch khoai tây nông trường gần đó, vừa cảm động, vừa  có chút gì đó…bùi ngùi cho 5 anh chàng Hơn, Sơn, Tâm, Chiến, Chung còn lại! Nhưng cũng khá nhanh, hình như các “nàng” đều nhận thấy thân thiết với các chàng người Việt cùng đoàn, vui thì vui thật, nhưng cũng rất dễ “thiệt thòi”? Các “chàng” đều hồn nhiên, sẵn sàng “vui chơi hết mình” nhưng rất cẩn thận với “hầu bao” , với sức khỏe của họ. A Dân thì cứ điềm nhiên nhận sự “săn sóc” của hai bạn nữ mà chẳng có gì đáp lại cả! Thế là âm thầm, không một lời to tiếng (mà to tiếng vì cái gì chứ?), các “nàng” dường như xa dần các “ chàng” người Việt và  mở rộng tình cảm ra cả “bán đảo Đông Dương”? Tình đoàn kết quốc tế mà. Bích Ngọc kết bạn thân thiết với Vi-nun-chàng sinh viên người Lào giỏi tiếng Anh, cán bộ ISK ( Hội đồng sinh viên Quốc tế- một tổ chức của nhà trường). Đông thì có Bun Chôm, sinh viên Lào giỏi cả tiếng Pháp và tiếng Việt, đôi khi đùa bạn :” Bun Chôm có biết “chôm” tiếng Việt nghĩa là gì không? Là xoáy đồ đấy!”, người bạn Lào vừa “thế hả, thế hả” vừa cười rất thoải mái, hồn nhiên. Thoa thì khác hai bạn cùng phòng,  gần gũi với Đa- ra, chàng sinh viên người Cam-Pu-Chia, to cao, hình như biết rất ít tiếng Việt? Nhưng đó là chuyện dài dài, chuyện “vặt”cả khóa học, hãy nói chuyện tết nhất đã . Sau khi nghỉ Giáng Sinh khá buồn (vì chỉ có sinh viên quốc tế thôi, sinh viên Đức- cả Đông và Tây- đều về nhà hoặc đi du lịch đến sau Tết Dương lịch cả mấy ngày), thì cái Tết Nguyên đán đã lấp ló. Hinh như đã có lệ từ mấy khóa trước nên Ban lãnh đạo nhà trường đều có nhắc nhở, năm nay Việt Nam lại có sinh viên nữ nên Đoàn trưởng Trần Viết Hơn quyết tâm tổ chức cái Tết thật ra trò. Tập múa, tập hát và đúng đêm giao thừa thì làm nem rán đãi những ai may mắn. Tôi đã chứng kiến cảnh mấy cô nữ sinh viên Đức lúng túng gắp nem mãi không được liền quẳng tuốt đũa đi, dùng tay bốc nem ăn ngon lành! Không nhớ thành công của món nem “Sài-gòn” là của cả ba cô gái hay của riêng ai, chỉ không thấy ai chê trách hoặc xích mích gì…Trước khi thưởng thức món nem, sinh viên quốc tế còn được  dạo Hội chợ hàng Việt Nam với khá nhiều món hàng được trường đoàn Hơn lo chuẩn bị và tha lôi từ trong nước-nón lá, túi xách, áo dài…Thêm những đùm dây đeo chìa khóa hình con tôm, con bướm  của các thành viên “tự nguyện đóng góp” sau buổi làm việc có hiệu quả của phiên dịch  Hòa với cán bộ Hải quan theo đến tận trường. Tôi nhớ buổi vui Tết Nguyên đán ấy có cả Hòa, Dũng ( chồng Hòa, cũng là phiên dịch) và hai con trai của vợ chồng họ- một đã học phổ thông, một đương đi mẫu giáo nhưng nói tiếng Đức lau láu…
Thấm thoắt thế mà đã hăm sáu, hăm bảy năm rồi, thời gian đi thật nhanh! Tôi về hưu đã tròn 6 năm. Hình như Trần Viết Hơn (đã chuyển sang Mặt trận Tổ Quốc VN) cũng đủ tuổi về hưu?  Chung có thời làm Giám đốc Sở Văn hóa & Thể thao &Du lịch Thanh Hóa, nay hình như đảm đương Vụ phó một vụ gì đó ở Bộ? Thành , cách đây lâu lâu là thường vụ tỉnh ủy Lai Châu (hay Sơn La)?. Bích Ngọc tiến bộ nhất, từng là Phó Chủ tịch UBND Tp Hà Nội, mới được bầu là Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HĐND Thành phố ,  trên ti-vi vẫn  tươi tắn nhưng thêm phần đĩnh đạc. Chiến, chỉ nghe tin là phó Giám đốc bảo hiểm xã hội Kiên Giang? Còn Tâm, A Dân, Đông, Thoa thì bặt tăm! Đất nước mình thật dài, dân số thì cận kề trăm triệu rồi …Nước Đức đã thống nhất, thế giới cũng bao nhiêu đổi thay, không hiểu cái cây bạch dương mà tôi đã vơ vẫn khắc tên lên đó, nay có còn không? Khắc tên lên gốc bạch dương/ Cái cây lặng lẽ bên đường mình đi/ Tháng Năm vòm lá xanh rì/ Thân phong lụa trắng đợi đề câu thơ// Ba trăm ngày tựa giấc mơ/ Ba trăm ngày sống thờ ơ mấy ngày?/ Phụ lòng với nước với mây/ Phụ lòng với gió với cây quanh mình// Khắc tên với cả lòng thành/ Mượn dao nói hộ chút tình với nhau!/ Vỏ mềm, nhựa ứa, cây đau?/ Cây ơi có mối tình nào dịu êm?//Người về xin gửi lại tên/ Và cây vẫn lớn vượt trên tháng ngày/ Mắt nhìn sẽ hiểu lời cây/ Rằng ai từng đến nơi này, từng yêu…( Bogensee, 5/1989-Khắc tên lên gốc bạch dương) . Đó là bài thơ cuối cùng tôi viết trên đất Đức, trước khi ra sân bay…
12/2015
N. H.S

Ảnh: 1/ Trên chuyến xe ngựa rong chơi, có mặt cả 10 học sinh Việt Nam
2/ Trên sân trường, từ trái qua: Chung, Tâm, Sơn, Thoa, A Dân.
3/ Trong bữa tiệc sinh nhật tác giả ( 5/2/1989), Xtêpan ( sinh viên Đức)  đương làm …hề, chụp ảnh!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét