Hội nhà văn Việt Nam vừa trao giải thưởng Thơ năm 2015 cho trường ca "Long mạch" của Hoàng Trần Cương. Xin chúc mừng tác giả và đưa lên trang bài viết của Vũ Nho, mới in trên Văn Mới số 8 tháng 02 năm 2016
HOÀNG TRẦN CƯƠNG – NHỮNG VỈA
THƠ TRẦM TÍCH
Đọc Hoàng Trần Cương – Thơ và trường ca, nxb Hội nhà văn,
2014
Vũ Nho
Một tuyển tập sớm thơ và Trường ca của Hoàng Trần
Cương gần 500 trang in khổ 14,5 x 20,5. Cuối tập có phụ lục 26 bài của các nhà
nghiên cứu, phê bình và bạn thơ viết về thơ của tác giả. Không phải nhà thơ nào
cũng có được con số ấn tượng như vậy. Và tôi tin với những vỉa thơ trầm tích
của nhà thơ họ Hoàng, còn nhiều chỗ
cho những người nghiên cứu phê bình khai
thác lâu dài trong hiện tại và tương
lai.
Vài lần tiếp xúc với Hoàng Trần Cương, thật chẳng tìm
thấy dấu hiệu thi nhân nào ở con người này. Hình hài thì gân guốc, có nét khắc
khổ, phong trần của người thợ bốc vác.
Anh đã chẳng hề điểm tô chút son phấn nào khi vẽ lại khá chính xác chân
dung mình: “ tính khí lại thất thường như
nắng/ Mặt gầy choắt mà đồng nghiệp gọi là “thằng mặt nặng” ( Bút kí thơ của
một kế toán trưởng). Đây nữa “ Mặt anh
buồn như đá/ Ai vứt ra ngoài đồng” ( Đợi). Đúng là “cái mặt không chơi
được” trong truyện ngắn Nam Cao. Ngôn ngữ nói năng thì mộc thô, trần trụi, chả
có tí hơi hướng văn chương nho nhã nào. Thế nhưng tất cả vẻ thô mộc của hình
hài và ngôn ngữ ấy, trầm tích trong
đó một sức vóc thơ vạm vỡ ( chữ của
Bằng Việt), một hồn thơ đa cảm, ngọt ngào tình
người đọng mật, một khí chất xứ Nghệ, khí chất miền Trung “ sắc như cật nứa” cứng cỏi và dữ dội “ nghiêng đêm,… lệch ngày”!
Ấn tượng mạnh mẽ của thơ Hoàng Trần Cương với tôi,
trước hết là sự chân thành, trung thực của nhà thơ. Có thể nói quá đi, có thể dùng mọi thủ pháp,
kĩ thuật. Nhưng trước hết, thơ phải chân thành, phải trung thực. Cái chuyện
vẽ mặt mình bằng thơ của anh, cho thấy
phẩm chất đó. Và đây, khi ngồi với người cựu chiến binh của đối phương dù bây
giờ là bạn nhưng nhà thơ –lính Hoàng Trần Cương không giấu diếm:
Rồi đột nhiên bỗng im lặng cả hai
Có lẽ anh đang nghĩ như tôi đấy :
“- Trong cuộc chiến ở Việt Nam
dạo ấy
May mà mày không gặp tao
May mà tao không gặp mày!”
Đôi mắt đối phương
( Đọc những câu thơ này, thốt nhiên lại liên tưởng đến
người cựu chiến binh Mĩ- Bruce Weigh trong cuốn Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa, khi anh bất ngờ đụng độ
người du kích ở Khe Sanh. Nhưng đó là trường hợp cá biệt trong chiến tranh).
Có
thể thấy những nét chân dung chân thật của người thơ, từ chuyện “đẻ rơi bên cối giã gạo”, đến chuyện cởi
trần, “vác gươm cọng chuối múa khắp làng”
làm vỡ vại nhút thức ăn cất trữ cả nhà trong mùa lụt, hay chuyện đói khát của
một nhà, nhưng cũng là cả một vùng quê, cả nước thời khốn khó đầy ấn tượng:
Tảng cháy cậy đi rồi/ Còn hằn vết móng tay/Cày lên/ Sưng cả đáy nồi
Trầm tích- Nguồn cội
Hoàng
Trần Cương mang tính cách rắn rỏi, thẳng thắn, rạch ròi của người xứ Nghệ. Có phải
thế chăng mà thơ không bóng bẩy, không đèm đẹp, không làm duyên. Và tính cách
cũng thế, mạnh mẽ, dứt khoát “ Đã chơi
chơi hết mình/ Đã làm làm kiệt sức/ Thẳng thắn và đẫm tình” ( Trầm tích –
Cá gỗ). Đằng sau cái vẻ cứng cỏi, ngang tàng ấy lại là một tâm hồn đa cảm, yếu
đuối, và đầy nỗi buồn, cô đơn : Có một
chiều ngoảnh lại/ Cô đơn đứng chật nhà ( Nỗi niềm); Ngang qua em có thấy/ Nỗi buồn còn run cây ( Vô tình); Vết đi
của thời gian xếp nỗi buồn xạm trán ( Cơn mưa không tạnh); Có những chiều mưa xối/ Mặt bợt như bã chè
( Hương chè Phú Thọ); Có những ngày cực
nhọc/ Ngực ta hóa than hồng/ Nỗi buồn lem lém cháy ( Cháy); Anh cắm sào trước dòng sông héo sóng/ Nghe
bãi bờ khò khè dưới chân ( Sang
sông); Cảm lạnh hắt từ trời/ Trái tim tôi chuột rút ( U Minh); Kí ức
đè nhức đêm/ Kỉ niệm niêm cất những mầm măng nhọn hoắt ( Đỉnh Vua)… Buồn
nhiều, cô đơn, nhưng Hoàng Trần Cương không chìm lút vào những tình cảm đó. Anh
biết “ Lấy buồn làm vui/ Lấy vui để mộng”
( Giao mùa). Sau giây phút “ Bợt bạt mặt người trong cơn giông”
là thời gian “ Trăng lại treo mơ
mộng trước hiên nhà” ( Dấu vết tháng ngày). Cho nên thơ của anh là phức hợp
của buồn lẫn vui, cô đơn và hòa đồng,
yếu mềm và mạnh mẽ, tỉnh táo và mộng mơ,
tinh lọc và thô nhám, cô đúc và phóng khoáng, cụ thể và khái quát,…
Người ta nói nhiều đến chất Nghệ, chất
miền Trung trong thơ Hoàng Trần
Cương. Một nhà thơ với giọng điệu không
thể lẫn, đậm cá tính và đậm màu sắc địa phương. Không phải là dân Nghệ, dân
miền Trung không thể nào viết những câu thơ gan ruột về quê hương:
Miền Trung/Tấm lưng trần đen sạm
Những đốt sống Trường Sơn lởm chởm dăng
màn
…
Miền Trung/Câu ví dặm nằm nghiêng/ Trên
nắng và dưới cát
Đến câu hát cũng hai lần sàng lại/ Sao
lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm
…
Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt/Lúa
con gái mà gầy còm úa đỏ
Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ/ Không ai
gieo mọc trắng mặt người
Trầm tích – Miền trung
Đến
cả câu hát của người bà cũng gầy gò, như
mới ốm:
Câu
ví dặm gầy nhom thì thào như người mới ốm
Từ
trong cái đãy nâu sồng thắt ngang lưng bà tối tối lại bò ra
Trầm tích – Nguồn cội
Nhà
thơ đậm chất Nghệ, đậm chất miền Trung. Điều đó hoàn toàn chính xác. Nhưng
ngoài chất Nghệ cứng cỏi, mạnh mẽ, đầy ý chí nghị lực vượt nghèo, trong thơ
Hoàng Trần Cương còn đậm chất lính, đậm dấu ấn trận mạc. Anh thú nhận
không giấu diếm:
Bây giờ anh vào tuổi bốn mươi/ Vẫn hốc
hác khuôn mặt thời lính trận
Sấp ngửa
bàn tay
Người lính đã vào đời theo cách nhìn của ngành
tài chính qua con mắt kinh doanh:
Con mang sức trai/ Chọi cùng súng đạn/ Mang
mạng sống của mình hùn với bao đồng đội/ Kinh doanh trên trận mạc/Giành giật
với đạn bom/Phần đất lãi
…
Con vẫn tung cuộc đời con –chút- vốn –
liếng – cuối – cùng- của mẹ lên chặn họng súng thù/ Cùng đồng đội gom từng phân
lợi nhuận/ Để gộp vào hôm nay
Trầm tích – Vốn và
lãi
Những
tháng ngày “Đọ sức với quân thù tận rừng
sâu núi thẳm”, từng chứng kiến “ ngực
bạn tôi máu xối”, từng “ run run vuốt
xuôi đôi mắt/ Đồng đội con chưa kịp nhắm”, và đã từng “phơi mình trước mưa bom bão đạn/ Ngót mười năm chọi súng với quân thù”
( Lòng tốt) cho nên người lính ấy biết quý những gì mình có được, biết đau nỗi
đau đồng đội “ Khi tuổi xanh các anh thôi
thêm tháng thêm ngày”, biết cảm nhận “ cỏ
vẫn bạc đầu/ Thương nhớ cắm hoa mờ bia trắng/ Hương trầm thấm xuống mấy tầng
sâu” ( Sấp ngửa bàn tay). Và đau buốt trước nỗi đau của người còn sống:
Có người lính mãn thời trai trẻ/ Người
yêu/ Giờ đã lấy chồng/ Con búp bê mở mắt tròn xoe/ Suốt ngày khóc trên tay con
của người yêu cũ
Trầm tích
– Mưa ốc đảo
Chính
tâm hồn người lính sống sót sau chiến tranh
ác liệt đã làm thành một vỉa trầm tích quý giá trong thơ của Hoàng Trần
Cương.
Nhân vật trữ tình là chú bé đẻ rơi bên
cối gạo, lớn lên trong đói nghèo, vào trận chọi nhau với súng đạn, đối mặt với
hiểm nguy, với cái chết là nhân vật chính yếu của trường ca “Trầm tích”. Bên cạnh đó là người bà,
người mẹ, những người anh em, đồng đội,
và cả em ( trong chương Thiên nhiên, đầy ám ảnh với mấy dòng thơ : Em thấm vào anh/ Đam mê lịm ngọt/ Như ngải
như bùa/ Như bão như giông…Em ngang qua chiều/ Nắng thơm mùi rượu/ Mắt sông/ Môi
lửa/ Gió lên đồng). Tôi muốn nói đến nhân vật đặc biệt là nhân vật MẸ.
Ngoài những dòng thơ cụ thể đầy xúc động về mẹ mà nhiều người khi viết về “Trầm
tích” đã không bỏ qua:
Treo
vội con lên chạn
Mẹ xắn quần đi giành lại cái sanh đồng sứt
quai
Theo
nước lũ nhoai ra ngoài ngõ/ Rồi một tay chắn gió
Mẹ
ngồi nhen lửa dưới mưa
Cật tre
Cái
nón mê mẹ đội nửa đời người
Khi
chóp thủng lại trùm lên vại nhút
…
Mẹ
lật đật trèo lên đò ngang/ Quảy theo con vào chợ
Gò
lưng giữ cho cân đòn gánh/ Chỉ sợ con lật người là đổ mất ngày mai
…
Mẹ lúi húi xâu đèn hạt bưởi/ Thổi
nùi rơm phù phù cho lửa rạng lên
Soi
mặt chữ để con ngồi học
…
Sớm
mai kéo sụp nón/ Sấp mặt ngồi cuối chợ
Nhặt
về những đồng xu bạc phếch đất bùn
Thóc giống
Mẹ
vén vun cưng nựng nụ cười
Trên gương mặt thời gian còn rác rưởi
…
Mẹ
là trầm tích của những gian truân
Những viên đá lẻ
Hình
ảnh mẹ, tiếng gọi mẹ có mặt trong các chương Nguồn cội, Đất mật, Quặng lửa, Mưa ốc đảo, Hoàng hôn màu cỏ, Bóng đa
làng, Địa linh, Cấu trúc làng, Đá đỏ, Giao cảm phù sa, Vốn và lãi, Miền trung.
Nghĩa là MẸ có mặt trong 15 trên tổng số 19 chương của bản trường ca. Và
có tới 15 lần tác giả gọi “Mẹ ơi!” trong
bản trường ca này. Mẹ là trầm tích của
gian truân, của làng quê hoa trái, của bạt ngàn thương mến. Mẹ là điểm tựa
tinh thần, là đối tượng để nhà thơ giãi bày
tình cảm, tâm tư . Người Việt gọi “Mẹ ơi!” khi mà vui, buồn, đau khổ hay
hạnh phúc ở mức mãnh liệt. Tiếng gọi “ Mẹ ơi!” của tác giả là trong những
trường hợp đó. Đồng thời nó còn có chức năng mở chương, mở đoạn để nhân vật trữ
tình giãi bày bằng từ “con” đầy tình cảm thân thiết và biết ơn. MẸ là một phần
cấu trúc vững chắc của bản trường ca này, và chính MẸ cũng làm cho bản trường
ca “Trầm tích” khác biệt với những trường ca khác.
Có thể nói thơ Hoàng Trần Cương là thơ
có giọng điệu, có phong cách riêng ám ảnh. Để có được điều đó, trước hết cường độ
cảm xúc phải mãnh liệt, mạnh mẽ. Không phải ngẫu nhiên mà các từ ngữ trong thơ
của Hoàng Trần Cương hầu hết đều là
những từ ngữ chính xác, sống động, cưa quậy. Nó thể hiện cường độ cảm xúc mạnh
của tác giả. Không khó để nhận ra những : Rong
róng nước mưa, Nỗi buồn lem lém cháy, Ríu rít nắng ra ràng, Kỉ niệm phăng phăng
về bến cũ, Nắng thất thanh, Kỉ niệm trơ xương thất lạc, Nắng quáng quàng, mưa
lắp bắp, Nắng nghiến ngấu ngày, mưa dằn
vặt đêm, Tiếng học bài nóng ran xóm nhỏ/ Tiếng gọi đò méo cả bến sông, Mưa xói
trắng đỉnh đầu/ Nước chảy đứt đuôi rắn…
Và
những hình ảnh thơ của Hoàng Trần Cương cũng vừa lạ, vừa sống động, vừa độc đáo
cứ xộc thẳng vào trí não người đọc :
Bỗng
dưng trời đất thâm sì/ Lốc rừng dựng đứng
Mây
đặc trời/ Tối bưng/ Gió chém/ Mưa đâm
Trầm tích- Thóc giống
Cay
đắng lắng vào trái ớt lúc còn xanh
Đất
vắt kiệt mình mọng nước múi chanh
Trầm tích – Nguồn
cội
Trăng
đầu tháng đỏ ngầu
Như
cái bã trầu ai nhè ngang đỉnh núi
Trầm tích – Thóc
giống
Chiều
buông áo mỏng bay ngang phố
Thoáng
bóng em về thơm lá non
Hơi ấm ban ngày
Những
con cá ươn trên thúng mẹt chợ quê
Ton
tót nhảy khi nghe hơi tiền mới
Bút kí thơ của kế
toàn trưởng
Bạn
đọc có thể không khó khăn gì tìm thấy các hình ảnh khác trong thơ và trường ca
của tác giả.
Giàu từng trải
giàu chiêm nghiệm trong chiến tranh và hòa bình; cảm xúc mãnh liệt, từ
ngữ sống động, cựa quậy, hình ảnh độc đáo, những điều đó đã góp phần tạo
niên diện mạo và giọng điệu riêng của thơ Hoàng Trần Cương. Anh đến với
thi đàn có muộn mằn, nhưng tên tuổi anh là một trong những cái tên đáng nhớ của
thế hệ thơ với những Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh,
Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Duy, Anh Ngọc, Hoàng Nhuận Cầm, Trần
Đăng Khoa…những nhà thơ áo lính.
Hà
Nội, tháng 5/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét