Nguyễn Văn Siêu ( 1796 -1872)
Tên tự là Tốn Ban, Hiệu Phương Đình, nguyên người làng Kim Lũ,
huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, sau thiên cư đến thôn Dũng Thọ, huyện Thọ Xương
( nay ở về vùng các phố Lương Văn Can, Hàng Bạc, Mã Mây, Hàng Giầy trong thành
phố Hà Nội), đỗ Phó bảng năm Minh Mệnh thứ chín ( 1828), làm quan đến chức Án sát,
có sang sứ Trung Quốc, sau cáo quan về, dạy học trò nhiều người thành đạt. Ông
là bạn học với Cao Bá Quát, hai người cùng là nhà văn lỗi lạc, nên thời ấy có câu
: “ Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán” ( Văn như Siêu và Quát, thì đến văn đời Tiền
Hán cũng không giá trị gì – có sách chép
Tiền Tấn)
Tác phẩm của
Nguyễn Văn Siêu gồm có : Phương Đình thi thoại, Phương Đình thi tập, Phương Đình
văn loại, Phương Đình tùy bút lục, Phương Đình thi văn tập, Phương Đình địa chí,
Phương Đình địa dư toàn biên…
Bài thơ Nhị hà đối
nguyệt trích trong Phương Đình thi tập.
NHỊ HÀ ĐỐI NGUYỆT
Duyên lưu yên hỏa thiên thôn quýnh
Bạc phố châu phàm vạn lí thông
Lao lạc khách tình đương ngạn bắc
Bồi hồi phiến nguyệt tự giang đông
Vân đê viễn thụ tà khuy thủy
Thiên khoát cao lâu dị đáo không
Vũ trụ khan lai hữu chi lạc
Tiêu thâm ý vị hữu thùy đồng
Dịch nghĩa
Ngắm cảnh trăng trên sông Nhị Hà
Hàng nghìn thôn xóm xa xa, lập lòe khói lửa hai bên sông
Thuyền bè đậu trên bến, giao thông với ngoài muôn dặm
Tình khách chơi vơi trên bờ Bắc
Mảnh trăng lơ lửng phía đông dòng sông
Áng mây rà thấp, bóng cây xa dòm nghiêng xuống nước
Bầu trời rông lớn, ngồi lầu cao dễ chạm tới tầng xanh
Cảnh vũ trụ xem ra rất vui thú
Cái ý vị lúc đêm khuya có ai giống ta không?
Lời bình của Vũ Nho
Đây là một bài thơ ngắm cảnh trăng
trên sông Nhị Hà ( Nhĩ Hà) tức sông Hồng. Chắc là trăng phải rất trong và sáng
nên cảnh vật mới hiện ra lồng lộng, xa xa. Không gian trước mặt thi sĩ là một
không gian rộng, có ánh lửa khói lập lòe
của hàng ngàn thôn xóm trù phú hai bên bờ sông. Còn trên các bến sông là thuyền
bè neo đậu sẽ tỏa đi muôn dặm. Cảnh hùng vĩ đó làm cho tình cảm của thi sĩ
như chơi vơi trên bờ Bắc. Trên không gian cao hơn là mảnh trăng lơ lửng phía Đông
dòng sông.
Vũ Nho Chủ trang
Điều độc đáo là vị trí ngắm cảnh của thi nhân. Không phải là
trên thuyền, cũng không từ một góc sân, hay từ một căn nhà. Vị trí đó là một tầng
lầu cao ngất có cảm giác như chạm vào bầu trời xanh:
Thiên khoát
cao lâu dị đáo không
Bầu trời rộng lớn, ngồi lầu cao dễ chạm tới
tầng xanh
Một hình ảnh thơ thật hoành tráng, lãng mạn.
Ở nơi cao đó nên mới thấy mây như thấp xuống, và có thể nhìn
thấy bóng cây như soi nghiêng xuống mặt
nước sông. Câu thơ gợi nhớ hình ảnh đẹp cổ điển trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu của
Thôi Hiệu : “Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ” mà thi sĩ Tản Đà sau này dịch Hán
Dương sông tạnh cây bày. Chỉ có khác chăng là đây là cảnh đêm trăng nên “ bóng cây xa dòm nghiêng xuống nước” sẽ không
thật nét.
Hai câu kết bài
thơ, người viết khẳng định vẻ đẹp rất thú vị của đêm trăng sông Hồng. Và tự hỏi,
có người nào đồng cảm, cùng thấy sự ý vị của cảnh vật như mình hay không. Đây
chính là loại câu hỏi để một lần nữa nhấn mạnh cảnh ngắm trăng trên sông Hồng lúc
đêm khuya từ một lầu cao là hết sức thơ mộng, hết sức thi vị. Và đó cũng chính
là tình cảm của một người yêu đời, yêu quê hương, yêu Hà Nội trong khoảnh khắc
“ Nhị Hà đối nguyệt”.
Hà Nội, 12/2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét