- Hiểu Mai
- Thứ Sáu, 18/01/2019 • 11.2k Lượt Xem
Có
người cho rằng, những chữ Hán giản thể giống như là một điềm báo chẳng
lành. Thực ra, điềm báo của chữ Hán giản thể đã trở thành sự thực, chuẩn
xác một cách đáng sợ!
Văn
hóa Á Đông không hề đơn giản như bề mặt mà mọi người nhìn thấy. Từng
nét lễ nghi, từng bộ trang phục, từng nét chữ đều ẩn chứa những nội hàm
vô cùng sâu sắc và liên hệ mật thiết với từng hơi thở trong cuộc sống
của chúng ta.
Có
một nét văn hóa mà không thể không nhắc đến, chính là nội hàm thâm sâu
của loại chữ viết tượng hình – Chữ Hán chính thể. Tuy nhiên, sau khi
chữ Hán bị giản lược, thì những nội hàm ấy cũng bị mất đi, thay vào đó
là sự lệch lạc, thậm chí biến dị. Đồng thời, chữ Hán giản thể còn mang
một điềm báo chẳng lành.
Có
một cư dân mạng Trung Quốc đã liệt kê ra hàng loạt các chữ Hán giản
thể. Tác giả đối chiếu những chữ Hán giản thể này với các hiện tượng tai
nghe mắt thấy trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Và điều nhìn thấy
được khiến người ta không khỏi phải giật mình kinh ngạc.
1. Thân bất kiến
- Chữ “Thân” chính thể 親 (người thân)
- Chữ “Thân” giản thể 亲, mất chữ “Kiến”
Thân
bất kiến: Người thân không gặp được nhau. Một năm chẳng biết cha mẹ,
con cái, người thân tại Trung Quốc được đoàn tụ bao nhiêu lần? Nơi nào
cũng thấy lưu lại những cuộc tình chớp nhoáng. Các quý ông, quý bà
khinh thường đạo lý, lang chạ khắp nơi. Điều này khiến những người cùng
huyết thống cũng chẳng được vui vầy bên nhau.
2. Sản bất sinh
Sản
bất Sinh: Đậu thai mà không sinh. Ngày nay các phòng khám tư, phẫu
thuật phá thai ở Trung Quốc nơi nào cũng thấy. Ngoài ra, chữ “Sản” chính
thể còn có nghĩa là của cải về mặt đất đai. Ruộng màu thì bị bỏ hoang,
mọi người đổ dồn về các khu công nghiệp và thành phố lớn, không cần ngũ
cốc chỉ lo kiếm tiền.
3. Hương vô lang
- Chữ “Hương” chính thể 鄉 (Quê hương)
- Chữ “Hương” giản thể 乡, mất chữ “Lang” 郎 – những người trẻ
Hương
vô Lang: Quê nhà không có người trẻ. Ở Trung Quốc, ai nấy đều đổ về
thành phố lập nghiệp mưu sinh. Trong thôn làng khó có thể bắt gặp những
khuôn mặt trẻ trung. Khắp cả ngôi làng chỉ thấy những người già yếu,
trẻ con và người tàn tật. Đây cũng chính là một cảnh tượng thường thấy
nhất tại Trung Quốc ngày nay.
Người già cô đơn ở ngoại thành Trung Quốc.
4. Ái vô tâm
- Chữ “Ái” chính thể 愛 (Yêu)
- Chữ “Ái” giản thể 爱, mất chữ “Tâm” 心 – trái tim
Ái
vô tâm: Yêu không xuất phát từ trái tim. Ngày nay thử hỏi có mấy người
còn giữ tấm chân tình son sắt, hay là chỉ quen chạy theo thời thế xô
bồ. Đại gia cặp
với chân dài. Kẻ ham tiền, người háo sắc, hễ có lợi là trao thân. Tình
một đêm, tình sét đánh, tình chớp nhoáng khiến nhà nghỉ mọc lên nhan
nhản khắp nơi. Quả là tình yêu không còn sự kết nối thiêng liêng và
trách nhiệm suốt cuộc đời.
5. Miến vô mạch
- Chữ “Miến” chính thể 麵 (Mỳ)
- Chữ “Miến” giản thể 面, mất “bộ Mạch”麥 – Lúa mỳ
Miến
không mạch: Bột mỳ không làm từ lúa mạch, thì làm từ thứ gì, bạn thử
đoán xem? Bột mỳ không có mùi lúa mạch, kỳ thực đã trộn lẫn phoóc môn.
Đây cũng là tình trạng làm giả thực phẩm, gạo giả… phổ biến trong xã hội
Trung Quốc ngày nay.
Hàng ở Trung Quốc giả từ thương hiệu giả đi.
6. Tiến bất giai
- Chữ “Tiến” chính thể 進 (Tiến tới)
- Chữ “Tiến” giản thể 进, mất chữ “Giai” 佳 – Tốt
Tiến
bất giai: Bước tiếp sẽ không may mắn, mà thành con ếch ngồi trong đáy
giếng. Chữ Tiến chính thể là bước tới điều tốt đẹp (Giai) thì nay là
tiến xuống giếng (Tỉnh 井: cái giếng). Sự nghiệp cả đời truy cầu chỉ như mò trăng đáy nước, tiền tài cũng như hái hoa trong gương.
7. Ứng vô tâm
- Chữ “Ứng” chính thể 應 (Đáp ứng)
- Chữ “Ứng” giản thể 应, mất chữ “Tâm” 心
Ứng
vô tâm. Lời nói gió bay, dẫu hứa hẹn cũng khó thành hiện thật, nói lời
lật lọng mà không biết ngượng ngùng. Người xưa rất xem trọng chữ Tín,
coi lời thề hẹn nặng tựa núi Thái Sơn, lời nói ra là đã được Trời Đất
làm chứng, ắt phải thực hiện. Nhưng trong xã hội Trung Quốc ngày nay
‘thành tín’ ngày càng mai một, dường như đã trở thành một thứ gì đó xa
xỉ không thể với tới.
8. Thính bất nhĩ
- Chữ “Thính” chính thể 聽 (Nghe)
- Chữ “Thính” giản thể 听, mất chữ “Nhĩ” 耳 – tai
Chữ “Thính聽” (lắng nghe) ở dạng chính thể gồm bộ “Nhĩ耳” (tai), bộ “Vương 王” (vua), chữ “Thập 十” (mười), chữ “Mục目” (mắt), chữ “Nhất一” và chữ “Tâm 心”.
Nếu
ghép các bộ này vào nhau chúng ta sẽ hiểu được hàm ý mà cổ nhân muốn
gửi gắm. Khi lắng nghe một ai đó, chúng ta phải khiến người ấy cảm thấy
họ quan trọng như một vị vua (chữ Vương), và lắng nghe bằng đôi tai của
mình (bộ Nhĩ). Đồng thời chúng ta còn phải dồn mọi ánh nhìn và sự chú ý
tới họ (chữ Thập, chữ Mục). Nhưng như vậy vẫn chưa đủ, điều quan trọng
nhất là phải dành trọn trái tim để cảm nhận những điều họ
nói (chữ Nhất, Tâm). Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể lắng nghe trọn
vẹn những thông điệp mà họ muốn truyền tải, mới biết cách thấu hiểu và
trân trọng người khác.
Chữ “Thính” 听 giản thể là Thính thiếu Nhĩ: Nghe mà thiếu mất tai. Nó chỉ gồm bộ “Khẩu口” (cái miệng) và bộ “Cân斤”
(cái rìu). Đại ý là không phải dùng tai, dùng mắt, hay dùng tâm để
lắng nghe như văn hóa truyền thống, mà là đáp lại bằng miệng, bằng những
lời búa rìu sắc nhọn.
9. Ưu vô lo
- Chữ “Ưu” chính thể 優 (Ưu tú)
- Chữ “Ưu” giản thể 优, mất chữ “Ưu” 憂 – ưu lo
Ưu
cần phải có lo: Muốn thành người ưu tú, xuất chúng cần phải biết lo
lắng cho đại cục, cho người khác. Bậc hiền tài như vậy trong thiên hạ là
khó cầu nhất. Người tài thời nay nghĩ đến vinh hoa, phú quý cho riêng
mình hay lợi ích cho muôn dân? Những người nhiều tài lắm tật, e rằng lợi
ít hại nhiều. Kiểu người này chỉ khiến con người càng thêm lo sầu.
10. Thái vô thủ
- Chữ “Thái” chính thể 採 (Hái)
- Chữ Thái giản thể 采, thiếu bộ Thủ 手 – Cái Tay
Thái
vô Thủ: Muốn hưởng mà không muốn động tay ra hái. Ngồi mát ăn bát vàng
người người muốn, đục nước béo cò kẻ kẻ cầu. Đây cũng có thể nói là
một thực trạng dễ thấy trong xã hội ngày nay. Những cậu ấm cô chiêu
Trung Quốc, những thế hệ trẻ chỉ biết ‘cúi đầu’ chờ đợi từ sự sắp đặt
của cha mẹ mình, chỉ mong cầu hưởng thụ cuộc sống giàu sang mà không
biết ra tay làm việc.
11. Bút… cong
- Chữ “Bút” chính thể 筆
- Chữ “Bút” giản thể 笔
Ngày
nay bút không còn thẳng. Con người Trung Quốc thời nay thường dùng bút
cong mà viết sử nên gọi là bẻ cong sử sách. Bút ngay sử thẳng xưa đã
có, tới nay sóng gió đã cuốn trôi.
12. Tân hữu binh
- Chữ “Tân” chính thể 賓 (Quan khách)
- Chữ “Tân” giản thể 宾, thiếu chữ Bối 貝 – Bảo bối, thêm chữ “Binh” 兵 – Binh lính
Xưa kia khách quý đến nhà mang theo quà quý (貝– Bảo bối). Chủ nhà bày biện yến tiệc, khoản đãi với tấm lòng thành. Ngày nay binh lính tới nhà (Bộ “Miên” 宀 chỉ mái nhà), không chỉ thiếu quà quý, mà còn có binh đao. Từ xưa đã gọi chuyện này là loạn cõi thế gian.
13. Miếu bất triều
- Chữ “Miếu” chính thể 廟 (Chùa chiền)
- Chữ “Miếu” giản thể 庙, thiếu chữ “Triều” 庙 – nghi thức bái lạy
Miếu
bất Triều: Trong miếu mà không thấy thật tâm tiến hành những nghi lễ
bái lạy Thần Phật. Ngày xưa chùa chiền là nơi con người ăn năn sám hối,
bởi con người kính cẩn bái lạy Thần Phật, mong tìm được sự thanh thản
trong tâm. Ngày
nay, chùa chiền như chiếc áo khoác của những kẻ vô Thần, trở thành
thắng cảnh du lịch, thành nơi kiếm chác, trao đổi của kẻ phàm tục.
Người mà quỷ thần cũng không sợ, ắt sẽ to gan dám làm càn.
Phương
trượng Thiếu Lâm Tự Thích Vĩnh Tín, còn được gọi là CEO Thiếu Lâm Tự.
Thánh địa tu hành linh thiêng giờ trở thành một công ty…
14. Võng vô mịch
- Chữ “Võng” chính thể 網 (Lưới)
- Chữ “Võng” giản thể 网, mất bộ Mịch 糸 – sợi cước
Lưới
không có cước, lưới vô dụng, cá lọt lưới trước mắt như thể trêu ngươi.
Pháp luật Trung Quốc cũng như một chiếc lưới. Ngày xưa Thiên tử cũng
phải chịu tội như thứ dân. Ngày nay quyền thế thay pháp luật một cách
vô nguyên tắc, thậm chí có thể lợi dụng quyền thế trong tay mà một tay
che cả bầu trời.
15. Hậu nhất khẩu
- Chữ “Hậu” chính thể 後 (Đời sau)
- Chữ “Hậu” giản thể 后, thêm chữ nhất 一, bộ khẩu 口
Đời
sau chỉ được sinh một con, về già cha mẹ ốm đau bệnh tật khó long nhờ
vả.. “Kế hoạch hóa gia đình là quốc sách, sinh quá một con gia đình
nghiêng ngả” – Đây là chính sách một con từng làm điêu đứng xã hội Trung
Quốc. Bao nhiêu hệ lụy của xã hội, quả thực cũng khiến lòng người âu
lo.
Ở
trên chỉ là một số ít ỏi được đưa ra, nhưng cũng đủ để biết rằng chữ Hán
sau khi bị giản lược thì những nội hàm tinh túy của văn hóa truyền
thống Trung Hoa cũng bị mất đi, thay vào đó là sự sai lệch, biến dị.
Mà
điều đáng tiếc hơn cả là, sự suy đồi và trượt dốc trong xã hội, dường
như cũng đã và đang diễn ra đúng theo từng sự lệch lạc trong chữ Hán
giản thể đó. Vậy nên, có người Trung Quốc cho rằng, những chữ Hán giản
thể này giống như là một điềm báo chẳng lành vậy!
Quả đúng là:
Học giả chân chính đứng một bên,Cải cách chữ Hán mù văn hóa.Thiên thu vạn đại trò hề diễn,Duy chỉ điềm báo chẳng hề sai.
Lưu Hà sưu tầm
Hiểu Mai biên dịch
Hiểu Mai biên dịch
Cám ơn Nguyễn Anh Tuấn đã gửi!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét