Nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ Nguyễn Trọng Tạo đã từ biệt thế gian chiều 7.1.2019 tại Hà Nội.
Xin chia buồn với gia đình!
Cầu chúc cho linh hồn anh siêu thoát miền Cực Lạc!
Vũ Nho
Xin đăng lại bài viết về anh như một nén nhang vĩnh biệt!
NGUYỄN TRỌNG TẠO NEO HỒN THƠ VÀO “BIỂN
MẶN”
VŨ NHO
VNCA: “Biển mặn” là cuốn trường ca của
nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo viết về biển đảo Tổ quốc qua rất nhiều biến động của lịch
sử dân tộc, được gìn giữ bằng máu xương của nhiều thế hệ con dân Việt. Với tình
yêu người lính, tác giả đã dành 2000 cuốn gửi tặng các chiến sĩ Hải quân, 1000
cuốn tặng ngư dân, cảnh sát biển, Kiều bào ở nước ngoài và bạn yêu thơ, 1000 cuốn
bán lấy tiền ủng hộ các chiến sĩ Hoàng Sa và Trường Sa. Vừa được Nxb Hội Nhà
Văn ấn hành tháng 9 năm nay, “Biển mặn” đã được sự đón nhận nồng nhiệt của bạn
đọc.
Chúng ta đã có nhiều, rất nhiều các tác phẩm văn xuôi, thơ và
trường ca viết về chiến tranh. Nhưng đề tài chiến tranh vẫn không bao giờ cũ. Trường
ca “Biển mặn” của Nguyễn Trọng Tạo vừa xuất bản, như đang làm nóng lên đề tài
này. Mấy câu thơ trong bài thơ “Những người lính đi qua thành phố” được lồng
vào trường ca này có lẽ giúp chúng ta hiểu vì sao Nguyễn Trọng Tạo viết trường
ca “Biển mặn”:
Người lính đi, qua mấy cuộc chiến tranh
Nói về súng dẫu nhiều – chưa nhàm cũ
Nói mất mát, hi sinh dẫu cạn lời – chưa đủ
Nói về súng dẫu nhiều – chưa nhàm cũ
Nói mất mát, hi sinh dẫu cạn lời – chưa đủ
Khi đọc tập trường ca “Biển mặn”, tự nhiên tôi có ý so sánh với
trường ca “Biển” của Hữu Thỉnh. Hai người từng là lính. Hai người cùng viết về
biển. So sánh thì thấy: Hai nhà thơ, hai cách tiếp cận biển. Và dù viết sau,
nhưng Nguyễn Trọng Tạo đã có một cách riêng để triển khai trường ca của mình.
Chúng ta sẽ thấy đó là một cách triển khai thông minh, độc đáo và sáng tạo.
Trường ca “Biển mặn” của Nguyễn Trọng
Tạo gồm 5 chương và phần Vĩ thanh: Mặn
hơn muối; Những cột mốc sống; Lính biển; Hải chiến; Đảo bão; và Vĩ thanh.
Bản trường ca này có chủ đề khái quát “mặn hơn
muối” để nói về “Biển mặn”. Trên trục
hoành không gian, biển trải từ Móng Cái đến Hà Tiên, bao gồm cả hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa và các đảo khác. Đồng thời trên trục tung lịch sử, tác giả
triển khai “Những cột mốc sống” từ thời xưa đến bây giờ, khẳng định chủ quyền ở
Trường Sa và ở Hoàng Sa.
Bốn thế kỷ
đi qua cột mốc giữa trùng dương
Những Hải
đội Hoàng Sa nhập hồn vào sóng nước
Nhập vào đá
san hô
Nhập vào Tổ
quốc
Vẫn còn đến
hôm nay tục tế lễ sân đình
Tế lễ khao
quân
Tế sống lính
lên đường
Những hình
nộm chết thay cho người lính
Cầu an bình cho mọi chuyến hành hương.
Về lịch sử nối tiếp các thế hệ, trong chương “Lính biển”, tác
giả đã viết về người lính hôm nay, con trai của người lính năm xưa trong bài
thơ “Những người lính đi qua thành phố”. Thật khái quát và cô đọng:
Cha đã lính. Bây giờ con lại lính
Những thế hệ nối nhau đi giữ nước non nhà
Xưa cha Trường Sơn Rừng
Nay con Trường Sơn Biển
Những thế hệ nối nhau đi giữ nước non nhà
Xưa cha Trường Sơn Rừng
Nay con Trường Sơn Biển
Tiếp nối lịch sử “Hải đội Hoàng Sa” từ thời nhà Nguyễn, tác
giả dựng lên chương “Hải chiến” rất cụ thể, rất “thời sự”. Ở đây không có lối
nói bóng gió nào hết. Đánh nhau với bọn
cướp biển không phải chung chung như vẫn nghe là “tàu lạ”:
Bọn cướp biển là ai? Tôi đã nhìn rõ mặt
… Tanh tưởi ngoại ngữ quen
Nghìn năm nhai xác….
Nghìn năm nhai xác….
… Rồi một ngày họ thành quân xâm lược…
Một
sự thật mà dân Việt và cả thế giới đều biết. Đó chính là đội quân bành trướng Bắc
Kinh xâm lược, họ đã đơn phương gây ra cuộc chiến tranh dọc biên giới phía Bắc
nước ta tháng 2 năm 1979. Họ cũng nhân danh “giúp bạn” mà quyết “Đánh trận này chiếm quần đảo Hoàng Sa”. Và cuộc hải chiến Hoàng Sa tháng 1 năm 1974 đã nổ ra
không cân sức:
Tín hiệu hòa
bình phát đi không thể nào xua đuổi
Những chiến
hạm xâm lăng.
… Lửa đã
cháy
Và biển xanh
dâng sóng…
Có thể nói, toàn bộ bản trường ca, đặc biệt hai chương II và
IV đã thể hiện rõ tính chất bi tráng của cuộc chiến khẳng định chủ quyền và
tinh thần vệ quốc của chúng ta trên biển. Lòng yêu nước như sóng biển uất nghẹn
trào dâng:
- Tôi nghe sóng Hoàng Sa uất ức
Gầm vang
Tôi nghe hồn Hoàng Sa nghiêng bóng thuyền che chở
Các bạn thuyền xúm vào nhau trên con thuyền rách nát
Tiếng rên thành bản nhạc chiêu hồn…
Gầm vang
Tôi nghe hồn Hoàng Sa nghiêng bóng thuyền che chở
Các bạn thuyền xúm vào nhau trên con thuyền rách nát
Tiếng rên thành bản nhạc chiêu hồn…
Chương “Đảo bão” là chương khắc họa thêm phẩm chất của người
lính biển Việt Nam. Nguyễn Trọng Tạo khắc họa sâu đậm về tập thể những người
lính vẫn vững vàng trên đảo bão, như là biểu tượng của cột mốc chủ quyền thiêng
liêng:
Đảo vẫn đứng hiên ngang như đứng vậy từ xưa
Dáng người lính sáng lên cùng đá đảo
Những người lính đầu trần không áo
Lại đắp dày công sự của mình lên
Dáng người lính sáng lên cùng đá đảo
Những người lính đầu trần không áo
Lại đắp dày công sự của mình lên
Phần “Vĩ thanh” là một phần tương tự như cái kết thúc có hậu
trong truyện cổ dân gian. Chúng ta đã cắm mốc chủ quyền bằng những “cột mốc sống”.
Chúng ta có những người lính biển dầy dạn chiến chinh. Chúng ta đã có những trận
hải chiến ác liệt. Chúng ta vẫn vững vàng trong bão tố biển khơi. Và những gì của
ông cha ta để lại, chúng ta phải giữ lấy bằng mọi giá. Và đảo đá đã thành quê:
Nghe tiếng gà gáy trưa trên ghềnh đá
Nghe tiếng bò gọi đêm thân thương quá
Tiếng chuông chùa rung động cả hoàng hôn…
Nghe tiếng bò gọi đêm thân thương quá
Tiếng chuông chùa rung động cả hoàng hôn…
Kết thúc trường ca là một sự thấu hiểu bằng con tim:
Biển nơi này mặn lắm
Những cuộc đời máu thắm đã thành hoa
Những cuộc đời máu thắm đã thành hoa
Rất nhân văn, và cũng rất trọn vẹn khi “Điệp khúc tiếng sáo”
luôn luôn trầm bổng khắp bản trường ca. Nó như vừa gói lại mỗi chương, lại như
vừa nhắc lại và mở ra dòng mạch phát triển của chủ đề chính với một sắc thái mới
mang tính phức điệu trong cấu trúc âm nhạc giao hưởng:
…Nhặt lên hạt muối, thưa rằng:
Một phần biển mặn. Mấy phần máu
xương…
Tôi đã đọc nhiều trường ca, nhiều tiểu thuyết viết về sự hi
sinh của chiến sĩ ta. Nhưng không thể nào không rưng rưng khi đọc những câu thơ
về sự hi sinh kiêu hãnh mà đau xót của các chiến sĩ giữ đảo Gạc Ma:
Những người lính sát vào nhau một vòng tròn khép kín
Mặc pháo 100 li từ biển bắn vào
Các anh hóa thành sao
Các anh hóa thành cờ
Mỗi người lính một lá cờ Tổ quốc
Mặc pháo 100 li từ biển bắn vào
Các anh hóa thành sao
Các anh hóa thành cờ
Mỗi người lính một lá cờ Tổ quốc
Đó chính là tượng đài của sự hy sinh đã được dựng bằng thơ.
Cái mới mẻ và hấp dẫn của tập trường ca này chính là bên cạnh
những câu thơ được viết kĩ, trau chuốt, vừa có vẻ thô mộc cường tráng, vừa tràn
đầy cảm xúc và mang tính khái quát cao, thì có những đoạn văn xuôi đậm đặc tư
liệu lịch sử, thông tấn. Không chỉ một đoạn mà nhiều đoạn từ sách của Lê Quý
Đôn, từ sách sử triều Nguyễn, và từ những trang báo, trang tin về Hoàng Sa, Gạc
Ma… (Theo sức đọc còn hạn chế của tôi, chưa có một trường ca nào làm như vậy!).
Thế mà những đoạn văn xuôi tư liệu ấy lại mang tới rất nhiều lượng thông tin
tâm hồn. Đó là cách mà Nguyễn Trọng Tạo đã làm cho dòng mạch trường ca trở nên
sinh động, có sức cuốn hút riêng.
Cuối cùng, chúng tôi muốn nói tới những
tìm tòi của tác giả Nguyễn Trọng Tạo trong bản trường ca này. Các chương được
liên hệ với nhau chặt chẽ theo chiều rộng không gian biển Việt Nam. Và theo chiều
dài lịch sử từ khi nhà Nguyễn lập Hải đội Hoàng Sa, cho đến những trận hải chiến
gần đây nhất. Tác giả đã sử dụng những
thần thoại, truyền thuyết về Con Rồng cháu Tiên, về Đảo là con trai đất liền,
Biển là tiên nữ; về việc ném đá thành các đảo, và cả những tục lệ “Tế lễ sân đình/ Tế lễ khao quân/ Tế sống
lính lên đường” trong nghi lễ dân gian. Nhân vật xưng tôi trong bản trường
ca khi là một người bình thường “ra khơi vào lộng”, nhưng khi lại hóa thành một
nạn nhân trên thuyền bị hải tặc ráp vây, hoặc thành “con thuyền bị đâm trên biển của mình/ Những xương sườn gãy nát”,
khi khác thì như là trong thần thoại “Tôi
mảnh ván tả tơi lại mọc thành cây/ Thành rừng xanh/ Thành cổ thụ/ Lại xẻ ván
đóng thuyền”. Tôi chính là người lính hải quân, có người cha đã viết bài
thơ “Những người lính đi qua thành phố”…
Nhân vật tôi vì thế mà đa dạng, đa thanh. Sử dụng “điệp khúc tiếng sáo”,
sử dụng những ghi chép trong sách vở, trong bản tin. Sử dụng cả đồng dao mới (do
Phạm Xuân Nguyên đặt lời). Sử dụng bài thơ hay của mình đã viết về người lính.
Tất cả đều được huy động có chọn lọc, được sắp xếp cài đan chặt chẽ. Đó chính
là độ chín trong cảm xúc và nghề nghiệp của người viết. Và điều cuối cùng là có
nhiều câu thơ hay có thể đứng độc lập.
Một bản trường ca hay là bản trường ca có giá trị tư tưởng
cao và có giá trị văn chương tương ứng. Thiếu một trong hai thứ, là không trọn
vẹn. Rất đáng ghi nhận là giá trị tư tưởng của bản trường ca này nằm trong văn
mạch yêu nước, một truyền thống quý báu của dân tộc. Và về nghệ thuật, ngoài bố
cục chặt chẽ liền mạch, hợp lí, còn có rất nhiều câu thơ được viết bởi một tài
hoa đang vào độ chín. Những câu thơ có thể neo vào tâm trí mọi người, như mỏ
neo của các tàu chiến sĩ hải quân neo vào lòng biển.
Trong một rừng trường ca của chúng ta, “Biển mặn” là một trường
ca thành công. Nó càng đặc biệt có ý nghĩa khi trường ca này ca ngợi những người
lính biển đang tiếp nối “Trường Sơn Rừng” của lớp lớp cha anh.
Hà
Nội, 13/12/2015
_________
(*) Theo Đỗ Quyên “đến nay - 2/10/2012 - trong tổng số 409 tác giả, có 293 tác giả
trường ca và 116 tác giả thơ dài
có tính trường ca: trung bình mỗi tác giả đã viết hơn 2 tác phẩm
có tính trường ca” (nguồn: khoavanhoc.edu.vn), nghĩa là có khoảng 1000 trường
ca.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét