PỜ SẢO MÌN
CON TRAI NGƯỜI PA DÍ
Vũ Nho
Tôi quen biết với nhà thơ Pờ Sảo
Mìn khá muộn mằn, mặc dù biết tiếng của anh đã lâu. Khi tham gia viết bình luận
cho bộ “Tuyển tập Văn học Dân tộc và Miền núi” của Nhà xuất bản giáo dục năm
1998 gồm 7 tập ( Ba tập thơ do Nông Quốc Chấn chủ biên, 4 tập văn xuôi do Ma Văn
Kháng chủ biên), tôi không được phân công viết về thơ Pờ Sảo Mìn. Biết anh có lẽ
là lần Đại hội nhà văn toàn quốc, khi cùng với nhà thơ Hà Văn Thể uống rượu anh
mang xuống từ Mường Khương. Ấn tượng mạnh
với tôi là anh đã có một thời gian dài đến 7 năm sống ở nước Tiệp để tu nghiệp,
nhưng bản sắc miền núi vẫn đậm trong cách nói năng, đi đứng. Rồi một lần khác,
khi lên Hà Giang dự Hội thảo của chi hội nhà văn Sông Chảy. Cũng chỉ loáng thoáng
bắt tay, hỏi thăm sức khỏe, nói những chuyện không đầu đề của cuộc sống đời thường.
Nghe anh nói về rượu ngô Mường Khương, về gạo thơm Séng Cù ( Hương Cốc). Lần gần
đây nhất gặp anh là tại Hội nghị quảng bá văn học Việt Nam và Liên hoan thơ quốc tế tổ chức ở Cung văn hóa
Hữu nghị Việt Xô tháng 2 năm 2019. Anh rủ tôi qua “chỗ có khói” là quán nước gần
Cung văn hóa, anh hút thuốc lào, mời tôi chén rượu ngô và trân trọng đề tặng cuốn
thơ song ngữ mới xuất bản bằng 2 thứ tiếng
Việt – Thái “ MỦA SAY SAY”, theo tiếng H’ Mông có nghĩa là “Đi nhanh nhanh”. Rồi
anh bảo anh sẽ ngược về Lào Cai, chứ không tham gia các hoạt động còn lại.
Tôi về nhà đọc
kĩ tập thơ anh tặng. Đồng thời lên mạng tìm đọc các bài viết của Nguyễn Thanh Đạm,
Hoàng Minh Tường, Hà Văn Thể, Hoàng Quý, Lê Thị Bích Hồng, Ngọc Ánh, Thái Sinh, Bích Phượng. Và tôi gắng hình dung Pờ Sảo Mìn
từ những điều mình cảm nhận trực tiếp, cảm nhận qua các bài viết, và nhất là cảm
nhận những bài thơ quan trọng nhất của anh.
Ngày 10 tháng
10 năm 1944, nhà thơ, con trai người Pa Dí chào đời trên núi cao của miền đất Mường Khương , vốn tên là Mưng Khang ( vùng đất có gang, có thép).
Nhà thơ đã viết về sự kiện này:
Con trai người Pa Dí
Mẹ sinh ra trên đỉnh đá tai mèo
Uống nguồn nước trong veo
Và có lần nhắc lại “Anh
sinh ra trên đỉnh rừng núi cấm […] Anh
sinh ra chân trời biên giới” (Đến bây giờ em có còn yêu tôi nữa không?); “Thu Bô dòng nước mát trong veo/Ngọt ngào sữa mẹ/ Đã nuôi tôi khôn lớn
nên người” ( Túp lều tôi).
Vũ Nho
“Con trai người Pa Dí” là tên một bài thơ mà nhà thơ tự hào không chỉ
cá nhân mình, mà là tự hào về những chàng trai dân tộc mình, những con người có vẻ đẹp mạnh mẽ, cường tráng. Nếu nhà
thơ Y Phương dân tộc Tày tự hào “Người đồng
mình tự đục đá kê cao quê hương”, thì Pờ Sảo Mìn hãnh diện:
Con trai trần trong mặt trời nắng cháy
Ép đá xanh thành rượu uống hàng ngày
( Cây hai ngàn lá)
Và khi nói về mình, về những người con trai Pa Dí thì hồn nhiên, thẳng thắn, tự hào:
Dáng vẻ ngang tàng như quẫy đạp trần gian
Con trai người Pa Dí/ Đã đi là đến/ Đã
đến là ở/ Đã ở là ở rất lâu
Đã yêu là yêu nhiều, yêu mãi/ Yêu cho
đến tận cùng man dại
Con trai người Pa Dí/ Không hận thù ghét bỏ với ai
Đi chín phương là chín phương bè bạn
Đến mười phương là mười phương thương nhớ
( Con trai người Pa Dí)
Một cách nói rất độc đáo, rất riêng
về mình và dân tộc mình. Như trong một bài
thơ khác, nhà thơ khẳng định con người nói chung và người Pa Dí nói riêng là
người có văn hóa “Biết ăn, biết uống, biết chết,
biết sống, biết yêu” ( Người).
Về những người con gái dân tộc, cũng
là những con người thật đẹp, thật đáng yêu:
Con gái cũng vén tay khoe tài
Tước vỏ cây thêu áo đẹp ngày mai
( Cây hai ngàn lá)
…một thời con gái
Tóc dài như suối, mắt sáng như sao/ Nghe em nói giọng chim mi ngọt ngào
Náo nức lòng tôi/ Con trai người Pa Dí
( Vợ tôi)
Nói về dân tộc mình, Pờ Sảo Mìn có
nhưng câu thơ đẹp và hình ảnh lạ. Đó là một cái cây lớn trong rừng có hai ngàn
lá, “một cây đứng trong muôn rừng cây đứng”
:
Dân tộc chỉ có hai ngàn người/ Biết gọi gió gọi mưa gọi nắng
Chắn suối ngăn sông nước ngược dòng/ Ngô lúa cười vui tận chân trời đó
Rượu uống quanh năm nước vẫn chảy về
( Cây hai ngàn lá)
Niềm tự hào về dân tộc mình, về
quê hương núi đá Mường Khương biên cương của Tổ Quốc được nhà thơ thể hiện sâu
sắc. Mấy tiếng “ người Pa Dí” luôn được
vang lên kiêu hãnh cùng với tên địa phương
và tên đất nước:
Mường Khương xanh rất xanh
Đất nước xanh rất xanh, như lá xanh, như bầu trời xanh
Biên giới ơi, yêu lắm một cung đàn
Một cung đàn tròn như dân tôi người Pa Dí
(Đất nước tôi xanh mãi một
cung đàn)
Nhà thơ Xuân Diệu đã từng ví mình
như một con chim ca hát: “Tôi là con chim đến từ núi lạ/ Ngứa cổ hát
chơi” ( Lời thơ vào tập Gửi hương). Có thể nói Pờ Sảo Mìn cũng là một con
chim lạ như thế. Tuy rằng nhà thơ khiêm tốn coi mình chỉ là một chú gà rừng. “Tôi chỉ
là con gà rừng/ Trên triền núi cao hoang vu/
Uống sương mù và ăn sỏi đá/ Và cất tiếng gáy chẳng còn ai xa lạ”. Nhưng
gà rừng thì cũng là một loài chim chứ sao! Và tiếng gà ấy là tiếng chim lạ của rừng xanh, tiếng cất lên từ niềm kiêu
hãnh của các dân tộc ít người Mường Khương,
của các dân tộc miền Tây Bắc.
Người miền núi thường có lối tư
duy cụ thể, những liên tưởng, so sánh với những
sự vật gần gũi quanh mình. Cây rừng,
dòng suối, ngọn núi, tảng đá, đồng cỏ,
con trâu, con hổ, con voi,…Nhưng chỉ riêng nhà thơ Pờ Sảo Mìn mới so sánh dân tộc
mình với một cái cây lớn “hai ngàn lá”, một hình ảnh so sánh độc đáo và mới lạ.
Và cũng chỉ có nhà thơ ấy mới nhìn ra cái cây lạ nhất trên đời là “cây ống khói”, một cái cây không phải ở trên rừng, không phải ở dưới biển:
Cây ống khói/ Xây bằng gạch đỏ chói […]
Cây ống khói chạm trời/ Bàn tay người vuốt thẳng
Suốt tháng năm… chỉ thở làn khói trắng
( Cây ống khói)
Viết về mình, nhà thơ “khoe” rất
hồn nhiên sức mạnh của người trai Pa Dí trong so sánh với những gì gần gũi:
Tuổi hai mươi anh mạnh như hổ/ Khỏe như trâu
Tuổi bốn mươi anh mạnh như gấu/ Khỏe như voi
Tuổi sau mươi sức anh vơi dần
(Đến bây giờ em có còn yêu tôi nữa không?)
So sánh sự tương phản một cô gái trẻ với mình, Pờ Sào
Mìn ví von:
Em ngồi đó/ Một đồng cỏ xanh nõn non tơ
Tôi ngồi đây/ Một cây thông rừng già bất động
( Tình ca rừng già biển
cả)
Các nhà thơ viết về vợ, ca ngợi vợ
cũng đã nhiều, nhưng có thể nói chưa có ai viết với giọng điệu ca ngợi táo bạo
và độc đáo như Pờ Sảo Mìn, khi anh gọi vợ
là mẹ, là nguồn gốc mọi bài ca anh viết:
Tôi gọi em đích thực : mẹ ơi
Mẹ của các con tôi và mẹ của chính tôi
Không có vợ không có câu thơ sinh nở
Không có vợ không có bài ca để hát
( Vợ tôi)
Ví con người như chim, Pờ Sảo Mìn
thấy “bầy chim di trú” trong hình ảnh những người dân Việt Bắc, Tây Bắc di cư vào Tây Nguyên:
Giữa đại ngàn Tây Nguyên lộng nắng/ Âm thầm chữ Thái cổ…
Trên bản đen phấn trắng
Lại đâu đó vọng về/ Khúc dân ca Tây Bắc xa xăm
Của người Hmông, người Nùng, người Mường, người Thái
Một dải Tây Nguyên/ Đầy tiếng chim di trú
Đang hát đang múa và đang ca/ Trên dãy Trường Sơn hùng vĩ của ta.
( Bản hòa tấu của bầy chim di trú)
Thơ Pờ Sảo Mìn có sự kết tinh của
những cách nói giàu hình ảnh ví von, so sánh trong thơ ca dân gian miền núi, đồng
thời có sự trong sáng, khoáng hoạt của một người chịu khó học hỏi, chịu khó làm
giàu cho vốn liếng văn hóa của mình như anh bộc bạch:
Bảy năm học bên Tây/ Ba năm học bên Tàu
Mười năm học bên ta/ Bây giờ tuổi
đã già
Chữ nghĩa quên hết cả/ Chỉ còn nhớ hai chữ
Làm CON NGƯỜI viết HOA.
Ngoài hình ảnh thiên nhiên phóng khoáng,
độc đáo của miền núi rừng Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng, thơ của Pờ Sảo Mìn còn
giàu chất trí tuệ, giàu tính triết lí. Đó là một trong nét nổi trội của thơ
anh.
Rễ cây quá ngắn/ Rễ người lại quá dài
Xin đừng dại mà hại lẫn nhau/ Cứ yêu nhau như mối tình đầu
(
Nhắn gửi)
Nỗi sợ hãi của một đời người chính
là nghèo khó, người trên bất chính và sự
tan vỡ gia đình được viết bằng lời cô đọng
như châm ngôn, như “tục ngữ mới” về cái
“thủng”:
Đời người/ Sợ nhất ba thủng
Thứ nhất sợ thủng quần/ Thứ hai sợ thủng nóc nhà trên cao
Thứ ba sợ thủng đít chảo đang đun.
( Sợ)
Các bài thơ Người ba tầng, Tìm cây làm nhà thể hiện
triết lí về con người; Ba lần rơi hố triết lí về cách sống; Đời người, Thời gian, Lá triết lí về cuộc đời.
Tình yêu thơ ca mạnh mẽ bất tận đã khiến một chàng trai Pa Dí
dù được học hành ở nước ngoài 7 năm về máy móc, nhưng lại bỏ hết cả để theo
nghiệp làm thơ và dành cả đời cho công việc đó. “ Năm mươi năm tôi đã lang thang/ Tìm rượu ngon, kiếm thơ phú/ Con đường
sao dài vô tận” ( Túp lều tôi). Chàng trai đó khi còn trẻ “Trên đường dài thiên lí/ Cứ thế phi bay…Cứ
thế phi bay”. Khi đã nhiều tuổi rồi thì “ Mủa say say” – Đi nhanh nhanh.
Anh vẫn không quên kết hợp giữa “đi” và “bay”, giữa dân tộc và hiện đại :
Mủa say say/ Đi phải đi nhanh nữa […]
Mủa say say/ Bay nhanh nhanh/ Bằng tốc độ mây
Bằng tốc độ gió/ Như tia nắng mặt trời/ Mới ngang bằng nhân loại
( Mủa say
say)
Trên con đường ngẫu nhiên của só
phận ấy, Pờ Sảo Mìn đã không sai khi chọn cho mình con đường dài dằng dặc đầy
khó khăn là sáng tạo thơ ca. Anh đã có nhiều tập thơ : Cây hai ngàn lá, Bài ca hoang dã, Mắt lửa, Cung đàn biên giới, Con trai người Pa Dí, Mắt rừng xanh,
Đôi cánh chim rừng, Tiếng chim cao nguyên, Mủa say say. Nhà thơ đã nhận 5 giải thưởng của
Trung ương và tỉnh Lào Cai.
Trong các nhà thơ người dân tộc,
có lẽ chỉ có Pờ Sảo Mìn người Pa Dí, và Triệu Lam Châu, người Tày Cao Bằng là có
thời gian sống nhiều năm và tiếp xúc trực
tiếp với nền văn hóa nước ngoài. Đó cũng là một yếu tố tạo nên những vần thơ vừa
đậm đà bản sắc dân tộc, vừa phóng khoáng,
hiện đại. Pờ Sảo Mìn xứng đáng là một trong những nhà thơ dân tộc độc đáo vào bậc
nhất của nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
Hà Nội, 14
tháng Ba năm 2019
Bài đăng trên báo Quân Đội Nhân Dân cuối tuần, số 1214 ngày 7/4/2019. Đây là bản đầy đủ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét