Hôm nay, Chủ nhật 21 tháng 4 năm 2019, lễ tang TS Chu Văn Sơn.
Đăng bài viết của Nguyễn Anh Tuấn để mọi người nhớ mãi Chu Văn Sơn, một người TÀI HOA!
Đăng bài viết của Nguyễn Anh Tuấn để mọi người nhớ mãi Chu Văn Sơn, một người TÀI HOA!
MỘT BÀI THƠ MANG NẶNG
HỒN CỐT CHU VĂN SƠN
Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Chu
Văn Sơn ít làm thơ, nếu không muốn nói rằng: hai bài thơ anh viết khi lãng du
trên đỉnh Mẫu Sơn có thể là duy nhất. Chất thơ và chất suy tưởng tràn ngập
trong tâm hồn anh đã trang trải hết trong các bài phê bình và tùy bút, như bài
tùy bút viết về hoa lau – “Phận hoa bên lề”(1) mà trong đó
anh bảo: lau như phận hoa lưu đày, và con đường của phận
người là đường tới hoa lau… Nhưng có lẽ, phải bằng thơ, Chu Văn Sơn mới tạm
yên lòng trước thân phận của một loài hoa khiến anh trăn trở xúc động tới độ
chảy nước mắt.
Nhân
một lần tới đỉnh Mẫu Sơn vào dịp mà ngay giữa Thủ đô mọi người phải mặc áo đại
hàn, Chu Văn Sơn đã “gặt hái” được hai “bông hoa thơ” về Tuyết và Hoa Layơn.
Đều là cảm hứng về sự cô đơn, sự lãng quên, song “Tuyết Mẫu Sơn”(2) mới chỉ là
sự gợi mở, gợi hứng, còn “Hoa Layơn đỉnh Mẫu Sơn” lại như một sự tổng kết, sự
suy ngẫm của anh về nhân tình thế thái… Chu Văn Sơn viết cho tôi trong một thư
điện tử: “Trên đỉnh Mẫu Sơn có một loài hoa do người Pháp mang sang trồng trong
những khuôn viên biệt thự từ đầu thế kỉ trước. Sau 1945, người Pháp đã đi khỏi
xứ này, hoa bị bỏ lại. Thành hoa hoang. Giờ vẫn mọc lẫn giữa hoa hoang cỏ dại.
Giống bị thoái hóa, gầy guộc nhợt nhạt. Rất thương. Đó là Layơn. Phận hoa? Phận
đàn bà? Phận người? Thân phận cái đẹp?… Thấy lẫn lộn trong một kiếp Layơn ấy.”
Hoa Layơn đỉnh Mẫu Sơn
Những cành Layơn
cong queo
gầy rớt
ngập đời giữa đám cỏ hoang
từng bông lơ ngơ
từng bông nhàu ướt
từng bông tái nhợt
cố nhoi lên
cố kiễng lên
nhìn mây cuốn về xa
Bàn tay xưa giờ nâng niu chăm chút chốn nào
ánh mắt xưa giờ say ngắm nơi đâu
bỏ rơi hoa nơi lưng trời
chôn chân hoa nơi đất khách
giữa thinh không mình em đơn độc
mòn mỏi kiếp hoa hoang vu…
Biết chia sẻ làm sao trước dáng hoa trầm cảm
biết an ủi làm sao trước phận hoa lưu đày
khi giọt tuyết của mùa đông cũ
vẫn thầm hoen nhụy phấn mỗi ngày
Muốn nói với em lời vu vơ như gió
e rằng hoa đã sương gió một đời
muốn tỏ cùng hoa lời nồng nàn của nắng
e hoàng hôn phai trên cánh
lại thôi
Muốn nán lại bên hoa
mà ngại mình nông nổi
muốn đem hoa đi
mà đời mình rong ruổi
lại thôi
Tần ngần Layơn
dùng dằng đỉnh núi
còi xa cuồng lên réo gọi
đành lòng
phải đành lòng
thôi
Chào nhé
chao ôi lời chào nhé
lời cỏ hoang
lời đỉnh vắng
lời mặn sương
lời nhạt nắng
lời nào không cực lòng nhau
Sao từ khi
một mình xuống núi
trái núi nào
cũng mộng mị Mẫu Sơn
sắc hoa nào
cũng tái nhợt
Layơn…
Là
người chuyên nghiên cứu về thơ đến độ chìm đắm trong thơ, khi viết “Hoa Layơn
đỉnh Mẫu Sơn” chắc hẳn Chu Văn Sơn phải nghĩ ngay đến những nhà thơ lãng mạn
Pháp thế kỷ XIX thường lấy hoa làm thi liệu, thi hứng, thi cảm… Nhưng cũng thật
may, thói quen luận lý, khái quát của một nhà phê bình lý luận văn chương trong
anh đã biến hẳn đi trước những bông Layơn mỏng manh yếu ớt, để mình anh trơ
trọi với xúc cảm thi sĩ… Mà đã là thi sĩ đích thực, ai mà không thể không khóc
cùng G. Apollinaire “Giã biệt” hoa: Anh đã ngắt chùm hoa thạch thảo
này/ Mùa thu đã chết, em nhớ cho/ Chúng ta sẽ chẳng còn gặp nhau trên mặt đất/
Hương thời gian ở chùm hoa thạch thảo / Và em hãy nhớ: anh vẫn chờ đợi em (L’
Adieu). Xin nhớ lại cuốn tiểu thuyết kiệt tác “Vỡ mộng” (Illusions
perdues) của H. Balzac, nhân vật chính ở giai đoạn trong sáng đẹp đẽ nhất
đã có một tập bản thảo thơ đầu tay mang tên hoa: “Những bông cúc”… Và những
“bông cúc tâm hồn” của chàng thanh niên thi sĩ Lucien Chardon tội nghiệp đã bị
những quy luật của đồng tiền giết dần giết mòn đến thê thảm!
Đến
Mẫu Sơn, thi sĩ đã “bất ngờ” chứng kiến cảnh hoa Layơn, tuy chưa bị ngắt, bị
giết, nhưng nếu như vậy còn đỡ đau lòng hơn cảnh: Những cành Layơn/
cong queo/ gầy rớt/ ngập đời giữa đám cỏ hoang/ từng bông lơ ngơ/ từng bông
nhàu ướt/ từng bông tái nhợt/ cố nhoi lên/ cố kiễng lên/ nhìn mây cuốn về xa
Thi
sĩ buộc phải tự hỏi trong nỗi niềm se sắt, có đượm oán giận, trách móc: Ai
đã đem em tới Mẫu Sơn… Bởi anh mặc nhiên coi hoa tựa một sinh mệnh đáng
yêu, mỏng manh, yếu đuối, thơ ngây, mang trong mình biểu tượng của Tình yêu, sự
hài hoà nguyên sơ thánh thiện nhưng lại có rất ít khả năng tự bảo vệ: Bàn
tay xưa giờ nâng niu chăm chút chốn nào/ánh mắt xưa giờ say ngắm nơi đâu/ bỏ
rơi hoa nơi lưng trời/ chôn chân hoa nơi đất khách / giữa thinh không mình em
đơn độc / mòn mỏi kiếp hoa hoang vu…
Đồng
thời thi sĩ cũng cảm thấy rõ một sự thật cay đắng – đó là sự bất lực của chính
mình trước phận người, phận hoa trong cơn lũ thực dụng của thế giới “Tấn trò
đời”: Biết chia sẻ làm sao trước dáng hoa trầm cảm/ biết an ủi làm sao
trước phận hoa lưu đày/ khi giọt tuyết của mùa đông cũ/ vẫn thầm hoen nhụy phấn
mỗi ngày
Thế
rồi, sự tần ngần, băn khoăn, lưỡng lự với tâm lý đời thường nhưng cũng đầy nhân
bản và tinh tế của thi sĩ trước những bông hoa gầy yếu khiến nỗi đau lòng xa
xót như càng khía sâu thêm vào lòng người đọc: Muốn nói với em lời vu
vơ như gió/ e rằng hoa đã sương gió một đời/ muốn tỏ cùng hoa lời nồng nàn của
nắng/ e hoàng hôn phai trên cánh / lại thôi/ Muốn nán lại bên hoa/ mà ngại mình
nông nổi/ muốn đem hoa đi/ mà đời mình rong ruổi/ lại thôi/ Tần ngần Layơn/
dùng dằng đỉnh núi/ còi xa cuồng lên réo gọi/ đành lòng/ phải đành lòng/ thôi
Việc
ngắt câu thất thường cũng góp phần diễn tả nỗi lòng ngổn ngang, đứt gãy, khó
xử, để tới đoạn sau, lời chào của thi sĩ chợt giống một tiếng thở dài, sau đó
là một tiếng khóc cố nén lại nhưng cuối cùng cũng phải vỡ ra thành những lời
nghẹn ngào: Chào nhé/ chao ôi lời chào nhé/ lời cỏ hoang/ lời đỉnh
vắng/ lời mặn sương/ lời nhạt nắng/ lời nào không cực lòng nhau
Tĩnh
tâm lại, chàng thi sĩ đa cảm đã ngẫm nghĩ về cái cuộc đời vốn nặng trĩu Mẫu
Sơn, Layơn, nhưng ở đây lại có sức khái quát giàu khả năng liên tưởng và lay
động: Sao từ khi/ một mình xuống núi/ trái núi nào/ cũng mộng mị Mẫu
Sơn/ sắc hoa nào/ cũng tái nhợt/ Layơn
Và
cũng chính nhờ sự khái quát này mà thi sĩ đã vượt lên khỏi sự đa cảm thông
thường của người đời, để lại một lần nữa mặc nhiên bước vào “quỹ đạo” của những
người lấy Cái Đẹp làm làm mục tiêu tối thượng, làm phương tiện giúp con người
hướng thiện – những người đã lấy Hoa làm một trong những thứ quan trọng để có
thể đặt hết cả niềm tin vào – nói như nhà thơ Pháp A. Rimbaud: Xác
thịt, cẩm thạch, hoa, Vệ nữ, ta đặt niềm tin nơi các ngươi (Soleil
et Chaire).
Nhà
phê bình Văn Giá mới đây khi viết về tùy bút của Chu Văn Sơn đã nhận định chí
lý: “Bộ ba tác phẩm “Angkor – những đối cực của cái đẹp”, “Sơn Đoòng”, “Kiếp
tượng nhà mồ” đã vượt lên để đứng vào hàng tuyệt bút” (vanviet.info).
Còn riêng tôi thì cho rằng, bài thơ “Hoa Layơn đỉnh Mẫu Sơn”, có thể coi là một
tùy bút thơ, cũng chứa đựng toàn bộ hồn cốt của “người hệ lụy Đẹp” (chữ của Văn
Giá) – nhà phê bình Chu Văn Sơn.
______________
2.
PHẬN HOA BÊN LỀ
Tùy bút của Chu Văn Sơn
Đó
là loài hoa nở vào cuối năm.
Đó
là loài hoa mọc nơi cuối đất.
Đó
là loài hoa đợi ở cuối đời.
1.
Khi
hầu hết các loài hoa trong năm đã khoe sắc phô hương cả rồi, nó mới nở. Nếu xem
mỗi niên hoa như một dãy dằng dặc, xếp hàng đợi đến lượt nở, thì nó đứng ở cuối
hàng. Kiên nhẫn, nhún nhường, hay biết phận biết thân? Thật khó nói. Chỉ biết
khi năm hầu tàn, mùa hầu cạn, chẳng còn loài hoa nào tranh chòi nữa, nó mới
dâng hoa. Nó nở trong gió bấc mưa phùn, dưới màu mây xám bạc của ngày đông tận.
Nhưng không ai đợi nó dịp tất niên. Càng không ai chờ nó cho tân niên. Nó là
loài hoa không được chào đón.
Nó
là loài hoa không biết đến hội hè. Nó không có chỗ trong các bình hoa bày trang
trọng tại những chốn cao sang. Cũng không có chỗ trong những vựa hoa, quầy hoa,
sạp hoa bày trên phố xá. Không ai đầu tư, không ai khuyến mại. Nó không bao giờ
có mặt trong danh sách những thứ hoa cần mua sắm để trang hoàng khánh tiết cho
bất cứ kì cuộc nào. Và nó cũng chẳng dám mơ được nằm trên bàn tay tình nhân
trao tặng nhau những dịp lễ lạc. Bàn tay chăm thôi còn chả dám mong, nói gì đến
bàn tay tình. Có phải bàn tay duy nhất nó được biết đến trong đời là bàn tay cầm
nắm nó khi triệt bỏ nó?
Không
có chỗ trong vườn nhà. Không bén mảng tới những hoa viên. Nó không có căn cước
tại đấy. Có ai cấp thẻ xanh để cho nó quyền cư trú tại đấy đâu. Thảng hoặc có
bóng nó vươn hoa ở góc vườn nào, thì nó chỉ được xem như dân lậu, dân liều. Nó
thường bị trục xuất trước tiên khỏi những hoa viên, hoa uyển. Họa chăng, chỉ
khi vườn đã bỏ hoang, nó mới có hi vọng. Chủ nhân chả còn đoái hoài, các loài
khác chả thèm giành giật đất nữa, thì nó mới đến mọc. Nó rón rén mọc trên đất
bỏ, đất thí. Dạng nhảy dù. Sống chui. Nó là loài hoa vườn hoang.
Ta
thường thấy nó ở bên đường. Đúng hơn, nó vẫn ở bên đường mà ta thường không
thấy. Nó không phải là địa chỉ cho những ánh mắt thưởng ngoạn kiếm tìm. Từng
đoàn xe cứ vút qua. Những ánh mắt vãng cảnh cứ rướn xa. Nhưng điểm nhìn của
dòng người thường không đặt vào nó. Nó bị lãng quên ngay trong tầm mắt người
đời. Dù ngọn hoa có đâm ngang tầm nhìn, xiên vào nhãn giới, thì cũng thế thôi.
Cả khi du khách dừng lại để chụp ảnh, ống kính zoom qua đầu nó là để chớp lấy
những cảnh hớp hồn phía xa. Về xem lại, thấy nó lỡ có mặt trong khuôn hình
ngoài ý muốn, thì bực mình. Khi in ra, người ta cẩn thận dùng photoshop xóa nó
đi, cho hết vướng. Nó là loài hoa bên đường.
Nhưng,
vương quốc thực sự của nó là miền hoang, là núi đồi gò bãi. Nó là cư dân của
những miền đời quên lãng. Lãng quên, đó mới là không gian cho nó, của nó. Một
kiếp hoa chung thân chốn lãng quên. Có phải nỗi hoang vu vón lại thành loài hoa
ấy. Có phải nó là đứa con tự túc của nỗi hoang vu. Sinh ra nó để tự khuây khỏa,
khoảng trống của hoang vu có bớt đi được phần nào không, mà giữa chốn hoang
vắng, có bóng nó chập chờn, lại chỉ thấy lòng thêm hoang dại.
Nó
là hoa lau.
2.
Nó
là loài cỏ. Mà nào có như cỏ mật được giấu vào túi áo, cỏ gà được chọn chơi, cỏ
gừng, cỏ nhung được chăm chút trong công viên. Nó là loài cỏ bị bỏ rơi. Người
ta vẫn trông mà đâu có thấy… Mặc, lau vẫn sống đời lau. Lầm lụi thanh bần. Lau
vẫn mọc, theo cách riêng. Không riêng từng thân, mà thành từng bụi. Khi nở thì
nhất loạt, cứ tua tủa vươn lên. Mỗi ngọn như một tia phun mạnh vào không trung.
Tất cả như một chùm pháo hoa bừng sáng. Lau tự bắn pháo hoa, tự mình hội hè lễ
lạc chăng?
Thực
ra, lau là chị em của mía. Cùng một xuất thân mà hai thân phận. Mía thành cây
vườn, lau thành cỏ hoang. Chị em xa cách từ đó. Nhờ có đường, mía thành loài có
ích, được chăm chút, vồ vập. Chỉ có hoa thôi, mà lại là thứ hoa bạc phận, lau
cứ như kẻ vô ích, bị bạc đãi, thờ ơ, dù không ít đời lau được trưng thu làm
đệm. Nếu vườn mía xuất hiện cỏ lau, chủ vườn sẽ diệt lau lập tức. Người ta gom
lau thành đống, đợi khô, rồi đốt, ngay bên những luống mía. Nào ai biết mía của
phần xác, lau của phần hồn, kể cả khi đứng nhai mía bên lau.
Lau
cũng nở theo cách riêng. Không bày từng cánh, không đơm từng phiến, mà vươn từng
sợi. Từng sợi nương nhau mà thành lọn, tụ lại mà thành bông. Như bông tuyết
khô. Như núm bông lẻ. Như lọn mây thất lạc thinh không, rơi rụng khỏi bầu trời,
đậu hờ trên ngọn mảnh. Nhưng bao giờ lau cũng vươn cao nhất, cố nghển cổ lên mà
nở hoa. Có lẽ trong các loài, đây là loài hoa cổ gầy nhẳng mà vươn dài nhất.
Dài đến ngất nghểu chon von. Khi toàn thân đã hết hẳn tầm vươn, nó mới đành trổ
hoa. Như để được diện kiến với trời, như để được giao lưu với mây, díu dan với
gió. Lau phải lòng mây, gió, phải lòng khoảng không chăng? Nhiều khi ngắm nó,
tôi cứ miên man với những giả tưởng cổ tích. Phải chăng, thuở xưa lau vốn là
một cụm mây trắng út ít? Một lần theo chúng theo bạn xuống nhởn nhơ trần giới,
rồi mải quyến luyến cây cỏ, đến lúc ngẩng lên thì ngày đã khép, nắng đã tắt,
chẳng còn kịp theo bầy mà về trời. Thế là cụm mây út rớt lại miền hoang. Nó lìa
khỏi gió. Đậu vào đầu cỏ. Mà thành hoa lau. Từ đấy, mây út sống kiếp cỏ hoa để
một đời luôn nhớ tiếc khoảng không, ngóng vọng bầu trời. Suốt đời thèm về lại
kiếp mây trắng. Mà không thể. Phải vì thế mà những bông lau buồn nhất là lúc
hoàng hôn? Khi mặt trời khuất dần sau núi, thu hết nắng đem đi, trên đầu mỗi
bông lau chỉ còn le lói vài tia nán lại, dáng lau mới bồn chồn làm sao. Những
ánh bạc cứ tím rực lên rồi thẫm lại. Đầu bông cố rướn lên rồi lả xuống. Xốn
xang mà u uất. Lau bơ phờ rủ bờm trong hoàng hôn. Rồi những ánh chiếu li ti
cũng tắt dần trên từng sợi bạc của hoa lau, bóng tối ngấm sâu vào cây cỏ. Đó là
lúc ngày thực sự trút hơi thở tàn cuối cùng để chết lịm vào lòng đêm. Cả chùm
lau muôn sợi bạc mềm óng ánh thế, tím rực thế, bỗng tím bầm, tím ngắt, như vẻ
mặt thất thần của kẻ chợt nhận ra mình khánh kiệt… Đón được gió mà đành buông
gió. Muốn cất mình bay, mà suốt đời chỉ đậu. Cuối cùng, lau chọn một cách bay
riêng. Không toàn thể, thì từng phần. Chẳng tưng bừng, thì lặng lẽ. Không có
một chuyến chung, thì làm vô vàn chuyến riêng. Lau cứ âm thầm xé mình ra. Đời
hoa là đời của ước mơ lớn xé lẻ thành những sợi lau con. Mỗi sợi bạc một ước mơ
bay. Cứ từng sợi, từng sợi, gửi vào gió. Mà bay. Nhung tuyết một đời tan thành
từng chuyến bay như thế. Bợt bạc rồi xơ xướp. Hết nhung hết tuyết, cũng hết đời
hoa.
3.
Đã
có khi tôi nghĩ lau như phận hoa lưu đày. Ấy là lần đi dọc đèo Bông Lau trên
đường số Bốn vắt từ Thất Khê sang Đông Khê mạn Cao Bằng. Nhưng rõ nhất là lần
trên đất Lào từ Luang Prabang về Viên Chăn. Toàn đường núi là đường núi. Hành
khách trên xe ai nấy kẻ gà người gật. Cũng gà gà gật gật nhìn ra, tôi cứ thấy
núi đồi hai bên chập chờn trắng, trập trùng trắng. Nhìn quấy nhìn quá, nghĩ là
mây bám tuyết phủ đó thôi. Nhưng Lào thì làm gì có tuyết nhỉ? Ừ, làm gì có. Thế
là bừng tỉnh. Thì ra lau. Chao, có đến hàng mấy chục cây số núi đồi bạt ngàn
lau trắng. Mênh mang đồi này núi khác những bờm lau trắng trùng phùng như bầy
bầy đàn đàn những ngựa trắng là ngựa trắng. Chúng tập kết ở chốn núi đồi này là
do bị xua đuổi mà cụm lại? Hay đang tìm đến nhau, hội quân tại đây để dàn hàng
nghênh chiến trong một trận sinh tử nào? Tôi đã ngất ngây đến hàng giờ với liên
tưởng đó. Nhưng, khi kịp nhìn lau trong toàn cảnh núi non rừng rú trải đến vô
tận ấy, tôi mới nhận thấy dáng lau kia đâu có kiêu hùng sát khí. Một nỗi buồn
trắng xóa phủ khắp núi đồi hoang. Lau trầm cảm thế kia mà. Bấy giờ, tôi mới
thấy lau như một bộ lạc bị hất ra rìa lãnh thổ. Lau như kẻ thất thổ, lưu vong,
phải khăn gói theo nhau tìm đến những chốn heo hút này để náu mình, để làm nơi
trú xứ. Lau như bầy người di tản. Rừng xanh núi đỏ kia là chốn tị nạn của lau.
Lau của kiếp người phát vãng. Rừng sâu rú thẳm kia là chốn chôn đời của những
kiếp người vô tăm tích. Lau mang phận lưu đày.
Nhưng
lau lại là công dân toàn cầu. Ở đâu mà chẳng gặp lau. Giữa cố đô Luang Prabang
của Lào, tôi cũng gặp lau nép mình bên những nếp chùa cổ, cạnh những pho tượng
Phật được khắc tạc sơ giản đến sơ sài. Ở Bhutan, vương quốc nhỏ xíu treo mình
trên rặng Hymalaya, tôi cũng luôn gặp những dáng lau. Lau bình thản đứng bên lề
đường nhìn từng toán người hành hương lên Tigernet, ngôi chùa thiêng mà như gá
trên vách núi, dựng cheo leo bên mép vực sâu. Ở Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ, cái thủ đô
độc đáo nửa phần thuộc Á, nửa phần thuộc Âu, tôi cũng gặp lau. Những bông lau
cứ điềm nhiên mà trắng hết phận mình, chẳng cần biết mình là lau Âu hay lau Á.
Lạ, vào Đà Lạt, gặp những đồi lau nương mình trong các thung lũng khuất sau hồ
Tuyền Lâm, sang Angkor, gặp lau liêu xiêu trắng dưới đôi chân sa thạch của
những vũ nữ Apsara, phất phơ bên nụ cười của Bayon bốn mặt, lên Vạn Lý Trường
Thành, gặp lau rạp mình dưới chân cái tấm bia khắc câu “Bất đáo trường thành
phi hảo hán” của Mao, qua Malaysia gặp lau nấp sau bức tường đổ của pháo đài
Malacca, … tôi không thấy ngạc nhiên lắm. Thì những chốn xưa xưa khuất nẻo thế
ấy vốn là nơi trú ngụ của lau mà. Còn cái lần gặp lau ở Mỹ, thì tôi thực sự
ngạc nhiên. Đó là hôm đến New York, ra đảo tượng Nữ thần Tự do. Ở cái nơi hiện
đại tối tân, nơi được chăm sóc cẩn thận bậc nhất thế giới này, mà phía sau tòa
tháp tượng sừng sững ngất trời lại có hoa lau. Lau thầm trắng những bông ẩn
nhẫn. Tất nhiên, du khách đều đổ xô vào thần tượng. Đến đây đâu phải để ngắm
lau. Nhìn những bông lau bạc lạc lõng, lơ ngơ ấy, tôi bỗng ngộ một điều: phía
sau mỗi thần tượng đều có những đời lau…
Và
lần vừa rồi, về Lao Cai, đúng cái nơi con sông Hồng nhập mình vào đất Việt, tôi
lại thêm một lần ngỡ ngàng về lau. Cả một bãi nổi giữa sông, dài đến hàng dặm,
ngập tràn lau trắng. Từng bông trắng xóa, cả bãi bạc xóa, toàn đảo cứ lấp lóa
lên như đang phơi tơ bạc ròng dưới cái nắng hiếm hoi của ngày đông. Dòng nước
hồng thì vờn quanh đảo trắng. Còn lau trắng cứ bồng bênh soi bóng xuống mặt
sông hồng. Chẳng phải kia là Thiên Thai trong cõi thực sao? Chẳng phải kia là
chốn dành cho những mối tình ngư phủ sao? Tôi bỗng thèm thấy bóng một chiếc
thuyền không, chủ nhân của nó bỏ lại bên bến lau. Và ước sao khi ấy, giữa ngàn
lau xôn xao kia, họ đang thầm thĩ với nhau những lời chỉ có họ và lau mới biết.
Khung cảnh trữ tình đó cứ xui tôi tin rằng: hẳn là thuở xưa, Chử Đồng Tử và
Tiên Dung cũng đã gặp nhau rồi bén duyên nhau trong đám lau như thế! Thì trong
lau vẫn ẩn cái nhịp sống đời đời trên mặt đất này thôi.
4.
Là
thứ hoa đạm bạc vào bậc nhất, lau mang trong mình một chút thiền ý. Thiền ý về
cái lẽ sắc không của tồn sinh. Không màu mè, không hình nét. Có sắc mà vô sắc.
Là hoa mà như không phải hoa. Có mà như không có. Hoa lau nhắc ta nhiều nhất về
sự chập chờn mong manh của phận người. Cũng là nhắc về cái bạc lý bạc nghĩa của
sự tồn sinh. Có lẽ vì thế mà thiền nhân bao đời thường thấy nhân gian trong một
thoáng hoa lau. Nhiều khi cứ ngắm mãi cái bông trắng hiu hắt bất định ấy, chính
tôi cũng từng lâm vào nghi hoặc: nó là hoa hay không phải hoa? nó là hoa lau
hay chỉ là cái bóng nhòe mờ, phôi pha của một loài hoa nào khác?
Nhưng
nó cũng nhắc ta về ý nghĩa bền bỉ của sinh tồn. Mỗi tồn sinh trên cõi này chỉ
là một bóng hiu hắt, một thoáng chập chờn, thế thôi. Có nghĩa gì lắm đâu. Nhưng
mà vẫn cố. Vẫn thản nhiên. Vẫn cứ mỉm bông lau. Nên lau đâu có giấu mình. Trái
lại, luôn vươn mình. Mọi loài hoa đều sợ gió. Gió làm phai sắc, nhạt hương, rã
cánh. Gió thành kẻ thù của hoa. Nhưng riêng lau thì không sợ gió. Lau chung
tình cùng gió, nô giỡn, cợt cười cùng gió. Lau chờ gió để được tung bờm. Lau
nương gió để cùng khiêu vũ. Đứng rủ bờm trong sương sớm, nhưng một khi nắng
lên, gió dậy là nó lại tung những chỏm bờm ánh bạc, rúng động, náo nức như muốn
tung mình tề phi cùng gió. Chỉ mình nó nô giỡn với lãng quên, làm cho lãng quên
đỡ phần cô tịch… Song, có lẽ phải trong canh khuya mới thấy hoa lau nhẫn nại
thế nào. Nó gục đầu vào sương khuya. Nhưng sương khuya đâu phải là điểm tựa.
Sương khuya lại từng giọt đậu lên đầu nó, dụi mình vào nó. Nó tìm nơi tựa, rốt
cục lại phải làm chỗ tựa cho kẻ khác. Nó chỉ còn biết tựa vào chính mình. Đành
tìm sự vững vàng trong thế chon von. Lấy cái chênh chao để làm sự cân bằng. Cứ
thế, nó yên phận làm lau để an ủi mặt đất này.
5.
Có
tình cờ không, khi theo nhau suốt bao năm, mà phải đến lần này, khi về đất Hoa
Lư tôi mới có thể viết về lau. Có phải đó là ý muốn của lau? Có phải lau muốn
tôi phải viết những trang lau này trên đất cờ lau? Thực ra, nơi chúng tôi ở và
làm công việc soạn đề thi suốt hai tuần, nhìn ra xung quanh đến hàng cây số
đồng ruộng, có bóng lau nào đâu. Nhưng, Hoa Lư là hoa lau. Đồn rằng xa xưa chốn
này là ngàn lau rậm rạp. Rậm rạp đến mức người ta ngỡ lau đã độc chiếm toàn bộ
vùng này làm căn cứ của mình. Lau đồn trú trên mọi triền đồi, vách núi của cái
xứ sở lắm núi nhiều non vẫn được xem là vịnh Hạ Long trên cạn này. Cứ vào cữ
đông này đây là lau nhất loạt phất cờ trên toàn xứ. Lau rợp đất, lau rợp trời
khiến người nay cứ mơ hồ thấy bóng đội quân cờ lau của Đinh Bộ Lĩnh hàng ngàn
năm trước vẫn thấp thoáng đâu đó trong lau. Nhớ lần tha thẩn vào Tràng An Bái
Đính. Tôi muốn có cuộc hành hương đến ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á, nằm sâu
trong non nước Hoa Lư, nơi mà thiên nhiên hoang sơ dường như vẫn còn bảo lưu
trong nó màn sương khói thời vua Đinh vua Lê, cùng màn sương Dương Vân Nga,
người đàn bà kì lạ, làm hoàng hậu của những hai vị hoàng đế, với hai triều đại
khác nhau. Lại cũng muốn kiếm tìm cho mình một ngọn lau mang hồn vía chốn này.
Nhưng cuối cùng, cái ấn tượng còn lại không phải về chùa, mà về lau. Chả biết
do mải tìm lau hay lau dẫn lối mà tôi đã lạc đến một cồn lau ẩn sau một bến
nước hoang hút, âm u. Rêu dày ngập gót, dây dại nghênh ngang chen đá lấn cây.
Chốn rậm rạp và rờn rợn ấy mách bảo tôi rằng có lẽ bao nhiêu năm rồi chẳng có
ai mò tới đây. Và, bất ngờ tôi gặp một vạt lau già có đến cả ngàn bông trắng
muốt. Bông nào cũng như một chòm râu bạc phất phơ bên bến vắng. Cứ như vẫn phất
phơ ở đấy tự bao đời. Chà, những bông lau ẩn dật! Những bông lau tự tại, thích
thảng! Tôi nhớ đã kêu lên thế. Và đã đinh ninh đó là lau xưa, những cây lau vẫn
ẩn mình ở đây từ thời Đinh Bộ Lĩnh. Trong giây lát, tôi ngỡ mình đang ở ngàn
xưa. Và khi bần thần bước ra khỏi vùng lau ấy, tôi thoáng thấy mình như vừa trở
về từ xa xưa vậy. Tôi đã giữ riêng cho mình cái ảo giác hiếm hoi đó suốt bấy
nay và thầm biết ơn những bông lau đã tặng cho mình khoảnh khắc thi vị ấy. Và,
biết ơn cả cái ông vua Đinh Bộ Lĩnh nữa. Có lẽ ông cũng là vị vua độc đáo nhất
trong những đấng quân vương. Bởi ông là người đầu tiên mà cũng có thể là người
duy nhất đã nhìn thấy trong lau một lá cờ. Người nhìn thấy trong lau tiềm ẩn
ngọn cờ, người ấy là hoàng đế. Càng xứng là hoàng đế khi nghiệp vương của người
ấy cũng là sự nghiệp biến cờ lau thành một ngọn quốc kì. Vậy là cái lá cờ Đại
Cồ Việt sau này được trương lên khi Đinh Tiên Hoàng Đế đăng quang đã được phất
lên lần đầu trong cờ lau Hoa Lư rồi. Nó là những bông lau trắng xốp này đây.
Nhưng, sau khi lên làm vua, liệu Đinh Bộ Lĩnh có còn quý lau, nhớ lau nữa
không? Khi hoàng đế là thằng bé con, thì mới nhìn thấy cờ trong lau. Chỉ có con
mắt trẻ thơ mới có cái nhìn ấy. Còn khi đã ngự ngai vàng, có lẽ vua chỉ còn
thấy cờ trong những tấm vóc đại hồng. Lá cờ lau xưa thì gửi trả lại cái thời
chỉ xem là ấu trĩ thôi.
6.
Vậy
là chỉ có con trẻ và giống nghệ sĩ là đoái hoài đến hoa lau. Đám trẻ con thì
thấy cờ trong lau. Đám nghệ sĩ thì thấy mình trong lau. Cầm trên tay bông lau
lúc ấy, một kí ức lau cũng lộn xộn kéo về. Tôi nhớ cái bến lau của Phan Huy
Vịnh đã chuyển một không gian rặt thảo mộc Tàu trong câu Tầm Dương
giang đầu dạ tống khách / Phong diệp địch hoa thu sắt sắt thành một
không gian rất Việt, trong đó phận tài hoa lận đận bên trời đã lẫn vào lau lách
đìu hiu: Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách / Quạnh hơi thu lau lách
đìu hiu. Tôi nhớ đến thứ lau nặng duyên nghiệp Nguyễn Du gửi vào nỗi tương
tư của chàng Kim, vào nỗi hoang vắng của nàng Kiều trong cái đêm nàng đành thả
phận mình theo gã Mã Giám Sinh Vi lô heo hắt hơi may / Một trời thu để
riêng ai một mình, cũng như bố trí Tiền Đường thả một bè lau cho
Vãi Giác Duyên cứu Kiều. Sau này, Thích Nhất Hạnh đã tựa vào chiếc bè ấy mà
đọc Kiều bằng cái nhìn thiền quán để chỉ ra ở đó bao nhiêu là
Phật lí cùng những công án Thiền. Tôi nhớ góc nhìn lau vượt đầu núi Phú Sĩ của
Hokusai. Nhớ ngàn lau hào hoa vẽ tranh trong nhạc của Văn Cao Ngàn lau
thấp thoáng bóng kinh kì sầu bao la. Nhớ đến hồn lau đa tình của Quang
Dũng Người đi châu Mộc chiều sương ấy / Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.
Và nhớ phận lau của ý niệm phôi pha đầy se xót về cõi tạm của Trịnh Công
Sơn Chập chờn lau trắng trong tay… Nhưng, nhớ nhiều hơn là lần đến
viếng Hoàng Hữu tại nghĩa trang Việt Trì. Chiều muộn hôm ấy, sau khi thắp
hương, tôi có hóa ngay bên mộ cho anh bài mình viết về Hai nửa vầng
trăng. Lúc hóa xong, ngước lên, bất ngờ tôi thấy bảng lảng sau làn khói một
bóng hoa lau trắng. Thứ hoa bạc mệnh từng nhập vào thơ anh, ám vào đời anh Người
xa phơ phất hồn lau gió / Thổi trắng chân trời như khói pha đã theo
anh về đây chăng? Tình cờ hay là vận vào? Bấy giờ, đọc trên mộ chí, thấy bạn
văn đã chọn khắc cho thi sĩ một câu hoành tráng Bến bờ anh tim dội sóng
khôn cùng. Tôi nghĩ, ừ, đành rằng đó cũng là một câu hay. Nhưng khoa trương
chưa hẳn đã là Hoàng Hữu. Câu thơ xuất thần nhất, Hoàng Hữu nhất phải là cái
câu đem hồn mình nương náu vào lau gió kia…
7.
Thì
ra, người có thể hờ hững với lau, lau đâu hờ hững với người. Chẳng thế mà một
trong những nơi quần cư của lau là nghĩa địa. Hầu như nghĩa địa nào cũng ẩn
hiện những lau. Có phải ở đó, nó mới sống cái sứ mệnh bí ẩn nhất của loài hoa
được gọi là lau: sứ mạng lau xóa hệ lụy nhân gian và an ủi những vong hồn. Nó
hảo tâm hiến mình làm giá thể để cho mỗi linh hồn đậu lại. Nó là đội quân thiện
nguyện, tìm đến an trú nơi nghĩa địa để an ủi những vong linh. Mỗi bông lau cứ
như sự hiển linh của một cô hồn. Trước khi Phật bà vẩy nước cành dương để hóa
giải cho mỗi kiếp người, thì lau đã an ủi cho họ bên từng nấm mộ.
Khi
bông hoa cuối cùng của những vòng hoa phủ quanh mộ tàn úa, rã rời, thì lau mọc.
Lau lặng lẽ đến và cúi đầu mặc niệm. Bấy giờ nó mới thực sự là lau. Nó lau đi
những vết hoen cuối cùng trong dương gian. Nó lau cho hư vô thêm trong suốt. Nó
túc trực bên ngưỡng cửa hư không để đón đợi, để an ủi những vong hồn, lau khô
những khổ lụy cuối cùng, rồi tiễn đưa từng vong linh vào sâu cõi hư bằng cái
vẫy tay phơ phất. Có hoa lau người ta mới biết, thì ra, hư không cũng bám bụi,
cũng cần lau xóa thường xuyên. Hoa lau cứ lầm lụi lau đi những lớp bụi vô hình,
vô minh. Lau cho cả gió, cả mây, cả trời…
Và,
chỉ khi nào bước vào đến chốn ấy, may chăng, mỗi chúng ta mới thấy giật mình:
con đường của phận người là đường tới hoa lau.
Hoa Lư, mùa hoa lau Giáp Ngọ
2.
TUYẾT MẪU SƠN
Thơ của Chu Văn Sơn
Tặng
vật tình cờ của mùa đông
tặng
vật mong manh của hạnh phúc
tặng
vật tinh khiết của cô đơn
tặng
vật âm thầm của hao khuyết
những
bông tuyết
bâng
quơ
bất
ngờ
trắng
buốt
Từ
niềm hào phóng của trời
từ
lòng từ thiện của mây
từ
trò đỏng đảnh của thiên duyên
từ
giấc mơ bỏ quên trong tuổi nhỏ
những
bông tuyết
phù
du
một
mình
trắng
buốt
Trước
khi chết thành băng
trước
khi tan thành nước
trước
khi bốc thành hơi
trước
khi về cõi khác
những
bông tuyết
trêu
ngươi
cứ
trọn đời
trắng
buốt
*
Em
về đỉnh Mẫu sơn
qua
cõi này thoáng chốc
thản
nhiên làm phận tuyết
thản
nhiên nhìn phận người
bao
mùa đông thầm ước
bao
mùa đông thầm trôi
lên
Mẫu sơn tìm tuyết
chỉ
gặp Mẫu sơn thôi!
tuyết
chập chờn một kiếp
ta
vô duyên một đời
bao
người đi tìm tuyết
gặp
tuyết được bao người?
những
bông tuyết
cứ
âm thầm
trắng
buốt…
1- 2009
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét