Hạnh Mai - Ảnh Duy Khoát
LẶNG NGHE LỜI THẦM CỦA
MỘT THI NHÂN
Đọc “Lời thầm” của Hạnh Mai, nxb Hội Nhà văn, 2019
Vũ Nho
Chị Hạnh Mai tham gia Ban chủ nhiệm
Câu lạc bộ thơ Tràng An của Hà Nội nhiều năm. Là Hội viên thơ của Hội Nhà Văn Hà
Nội. Đến nay Hạnh Mai đã xuất bản 3 tập
thơ riêng: Đám mây bay qua (2010); Điều bất chợt (2012) và gần đây nhất là Lời thầm (2019).
Có thể nói “Lời thầm” là tập thơ
thể hiện những nỗi niềm của một người phụ nữ dịu dàng, đa cảm. Nguyên tên tập thơ cũng cho thấy tác giả là người không
thích ồn ào, không thích phô trương, mà chỉ thích thầm thì, thủ thỉ, như loài
hoa Mộc, hương và sắc khiêm nhường “Cứ lặng thầm tự khắc họa thành tên” ( Hoa Mộc).
Đó là một trong những biểu hiện nữ tính kín đáo của sự dịu dàng.
Chúng ta sống trong thời đại thông
tin bùng nổ. Con người bị cuốn vào xa lộ thông tin với những chương trình ti vi
rất nhiều kênh, nhiều đài phát thanh phát
24 trên 24, với những điện thoại thông minh kết nối toàn thế giới. Có người đã
tìm sự yên tĩnh bằng cách tắt điện thoại, tắt ti vi, tắt mọi nguồn thông tin để
sống hoàn toàn trong sự tĩnh lặng ít ngày.
Hạnh Mai không làm thế nhưng chí ít chị cũng tạo sự giãn cách:
Đôi khi bỏ máy lặng thinh
Để còn nghe tiếng lòng mình đổ chuông
Người phụ nữ làm thơ này có cách riêng để cân bằng giữa sự
hướng nội và hướng ngoại. Không phải chỉ
chuyên chú vào hướng nội, vào cõi riêng lòng mình. Thơ của Hạnh Mai không chú
trọng thể hiện cái tôi riêng, mà có sự cân
bằng giữa cái tôi và cái ta, giữa cá nhân mình với cộng đồng. Có thể bắt gặp
nhiều mảnh đời nhiều số phận của những con người nhỏ bé trong thơ chị:
Bà lão cào nghêu từ sớm
Dáng còng đổ xuống ban mai
( Cuối hạ)
Một “Người đàn bà sửa
xe” có cuộc sống vất vả “lăn lóc với đời”
:
Bơm căng bao nhiêu ruột săm
Mà đời bà lép xẹp gốc bàng
(
Người đàn bà sửa xe)
Một người phụ nữ mắc
bệnh cùi phải lìa bỏ quê hương, gia đình đến ở trại phong:
Cụt cùi dẫu có liền da
Còn mãi nỗi đau li biệt
Với quê, người cùi đã chết
Mắt chị buồn vô vọng phía biển xa
( Lời
buồn gió thổi)
Hai người bạn già từng có một thời trẻ trung nhưng số phận
thật bi đát sau chiến tranh. Chỉ có tấm lòng nhân hậu rộng mở của một người phụ
nữ mới có thể cảm thông hết nỗi mất mát, đau buồn và sự kiên cường của hai người
phụ nữ vô danh “Bà còng dắt tay bà mù”
đi hội. Bà còng thì “Một thời đi đứng thẳng
ngay/Đá mòn chân cứng dạn dày Trường Sơn/ Một thời khói lửa đạn bom/ Thẳng ngay
để lại, chỉ còn lưng cong”. Bà mù thì “Nặng
tình bởi một câu thề/ Mắt mờ theo những nỗi khuya u buồn/ U buồn khua gậy lối
mòn/ Bước dò theo kỉ niệm còn trinh nguyên” (Đôi bạn).
Một cụ già sức
yếu, không thể ở tầng cao, nhưng tầng một thì lại cũng có sự khổ riêng:
Bà cố tám mươi sức yếu\
Ra vào tầng một quẩn quanh
Đêm đêm thở cùng xăng nhớt
Chập chờn thức ngủ cầm canh
( Nhà chật)
Và đây, một
em gái phải đội mưa gió để mưu sinh nơi “chợ tình” thực chất là “chợ tiền”:
Ngàn vàng quý giá ai hay
Vãng lai, cửu vạn, thợ xây
cũng mời
Nâng lên hạ xuống ngã lời
Mười phương em bán cả…mười một phương
(Mưa
chợ tình)
Tình cảm của người phụ nữ dịu dàng, đa cảm ấy còn dành cho một
người bạn thơ “khổ lụy vì tiền” :
Em đi theo với người ta
Biết rồi thân gái đường xa thế
nào?
Lối mòn bước thấp bước cao
Nơi đâu là chốn dạt vào nương
thân
(
Thế là)
Và nhiều tình cảm thương yêu nhất, chị dành cho người mẹ của mình trong các bài Thu buồn, Mùa vu lan, Ru mẹ, Ngày giỗ mẹ.
Những câu thơ như bứt ra từ tấm lòng người con hiếu thảo:
Không già hơn được nữa
Tuổi già qua lâu rồi
Con trở thành bà ngoại
Mẹ vẫn già thế thôi
( Mùa vu lan)
Ngủ đi này những nếp nhăn
Mẹ ta tất tả lo toan nhiều rồi
Ngủ đi này đốm đồi mồi
Gió sương để dấu một thời gió
sương
Ngủ đi mái tóc mây vương
Sợi rơi, sợi rụng, sợi buồn sợi
lo
(
Ru mẹ)
Không chỉ
quan tâm đến những người phụ nữ bình thường,
nhỏ bé, thiệt thòi, Hạnh Mai còn quan tâm đến những vấn đề của cả giới mình
trong các bài thơ Trước cửa tòa, Cầm lòng mượn tiếng hờn ghen, Ba mươi phút mỗi
ngày, Lời thề, Tôi rơi. Và tác giả còn quan tâm đến những chuyện lới lao của
xã hội, của đất nước. Người thơ xa xót với biển chết miền Trung:
Miền Trung!
Xứ sở thần tiên biển xanh cát
trắng
Rộn rã tàu thuyền lướt sóng
vươn khơi
Thuyền và biển muôn đời gắn
bó
Biển chết rồi, thuyền trắng
những mộ phơi
( Miền Trung)
Và không quên nhắc nhở về chủ quyền biển đảo:
Ấy là mảnh đất cha ông
Giong buồm mở cõi một vùng đảo
xa
Ấy là máu chảy Gạc Ma
Vẫn không thôi nhắc nhở ta chủ
quyền
(Ấy là)
Về niềm riêng, có thể
thấy tác giả ít bộc lộ “cái tôi” cá nhân, nếu so sánh với nỗi chung. Thấp thoáng
trong tập, những câu thơ gợi hoàn cảnh
riêng của người viết. Đó là khi đợi chờ : “Người
đi nhẹ bước phù vân/ Ta phong gói những mùa xuân đợi chờ” (Đợi chờ). Đó là
khi gặp gỡ muộn màng : “Gặp đò, đò đã
sang ngang/ Gặp người người đã đa mang phận người” ( Mong manh). Đó là khi
cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo : “Mình trơ trọi
giữa bao la căn phòng/ Rét gì rét thế đêm đông/ Như là gió thổi từ trong ra
ngoài” ( Cô đơn). Đó là khi có cảm giác cỗi cằn : “Thơ giờ ngày một khó khăn/ Tình giờ ngày một cỗi cằn hơn xưa/ Mặt giờ
nhàu nhĩ nắng mưa/ Mùa em rớt giá cả thơ lẫn tình” ( Mùa em). Có lúc người
viết cảm thấy mình đánh mất mình : “tôi
rơi tôi rồi”. Ấy là khi bị cuốn vào các công việc bếp núc, chợ búa hay làm vườn
( Kể cũng ngạc nhiên là một người có nghề “thiết kế kết cấu công trình” lại có
cả một “vườn rau sạch” để rơi vào). Rốt cuộc là tìm mãi không thấy “cái tôi”, tác
giả chỉ còn biết “Trách mình dại dột/ Sao không rơi vào thơ!”. (Tôi rơi).Thì ra đây là một câu chuyện mang tính
chất ngụ ngôn! Rơi vào thơ ư? Chắc gì đã tìm thấy dấu vết khi mà chính người viết
đã từng kêu : “Thơ gieo mấy mùa hạt lép/
Đất nghèo chưa thấy mọc lên” ( Nhà chật).
Bạn đọc có thể
tìm thấy những ý nghĩ chân thành, mộc mạc nhưng không kém phần sâu sắc của tác
giả trong các bài thơ Bức tường, Lễ Phật
xứ người, Giọt chiều, Hoa phong lan, Hoa
lộc vừng,…
Tôi ấn tượng
với thái độ lạc quan, rất nữ tính nhưng cũng rất cứng cỏi của chị, và cũng chúc
tác giả và những người đọc thơ Hạnh Mai sống tự nhiên, mạnh mẽ với tinh thần ấy:
Đã yêu thì cứ yêu đi
Đã thương chẳng ngại đôi khi
mếch lòng
Đã vui, vui đến nhập đồng
Đam
mê cháy đến tận cùng đam mê!
( Bây
giờ)
Hà Nội, ngày 8 tháng Ba năm 2019
In báo Người Hà Nội, số 16 ngày 12
tháng Tư năm 2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét