\TRẦN ĐĂNG KHOA
I
Tôi biết nữ thi sĩ Bảo Ngọc từ những năm 90 của…thế kỷ trước. Khi ấy,
trường viết văn Nguyễn Du hay mời tôi đến trao đổi nghiệp vụ. Bảo Ngọc là học
viên của trung tâm đào tạo tài năng trẻ này. Nhưng chị không giống với bất kỳ
một sinh viên nào của trường. Xinh đẹp. Yểu điệu, lại rất khiêm nhường. Bảo
Ngọc rất ít xuất hiện. Nếu có phải “nhô ra” thì chị cũng lại giấu mình vào đám
đông. Trông chị mỏng manh, lặng lẽ như cái chính bóng của mình.
Nhà phê bình nghiên cứu văn học Nguyễn Đăng Mạnh
thật có lý và cũng vô cùng sâu sắc khi ông cho rằng, muốn xét vị trí hay giá
trị đích thực của một nhà văn, nhà thơ thì trước hết phải đặt nhà văn ấy, nhà
thơ ấy vào nền văn học, ngắm anh ta trong vẻ đẹp của tổng thể, rồi thử nhấc anh
ta ra, xem có vì sự khuyết vắng của nhà văn, nhà thơ ấy mà nền văn học xộc
xệch, méo mó đi không. Nếu không có gì thay đổi, thì nhà văn, nhà thơ ấy chẳng
có giá trị gì cả.
Và như thế, để có được một vị trí, dù rất nhỏ nhoi ở trong nền văn học, người viết cũng phải tạo dựng được một phong cách riêng, một giọng điệu riêng, không lẫn với ai, cũng không ai thay thế được.
Bàn về vấn đề này, nhà thơ nổi tiếng Phạm Tiến
Duật nói rất vui rằng, ông có một cái
mũi rất khác người. Mà đúng là cái mũi thi sĩ Phạm Tiến Duật quả cũng có khác
người thật. Nó khoằm khoằm và nhọn như mỏ quạ. Vì vậy, khi làm thơ hay viết
văn, ông cứ phải dí cái mũi khoằm khoằm đó xuống trang giấy, để người đọc nhờ
cái vệt mũi khoằm khoằm ấy mà nhận ra ông.
Nữ thi sĩ Bảo Ngọc, một thục nữ yểu điệu luôn
giấu mình vào đám đông, nhưng thơ chị lại vời vợi một niềm riêng, với một giọng
điệu riêng, không lẫn với ai cả. Đó là điều thú vị nhất của tập thơ mà bạn đang
có trong tay này.
Có một thời, chúng ta quan niệm về thơ
rất eo hẹp. Nói như nhà thơ lớn Chế Lan Viên: “Một câu thơ ba phần làm nhiệm
vụ”. Quan niệm ấy còn chi phối sang cả mảng thơ tình, là một cõi riêng trong chốn riêng tư. Nhà thơ lớn
Xuân Diệu, ông hoàng
thơ tình từng có một bài thơ rất nổi tiếng, và ông đã lấy tên bài thơ này làm tên
chung đặt cho cả tập thơ. Đó là bài “Cầm tay”:
Một tuần công
việc tạm xong
Cầm tay chủ nhật
hòa trong phố người
Hai
câu thơ rất nổi tiếng này, Xuân Diệu đã lấy làm đề từ cho cả tập thơ. Ngẫm kỹ
rất buồn cười. Đúng là “một câu thơ ba phần làm nhiệm vụ”. Để yêu nhau,
bày tỏ tình yêu với nhau, lại phải chờ vào lúc “công việc tạm xong”, còn
khi công việc chưa xong thì dứt khoát là không yêu nhau rồi. Mà việc có xong
thì cũng chỉ là xong tạm. Bởi sau đó vẫn còn phải làm tiếp. Chờ những sau “một
tuần”, khi công việc “tạm xong”, hai người mới cầm tay nhau, lại
phải chọn đúng ngày chủ nhật, lại không ở trong nhà, không khép cửa lại mà đi
ra phố, lại chọn con phố rất đông người để đưa nhau đến. Câu thơ có gì đó rất giả. Tôi ngờ hình như
đấy không phải tình yêu và cũng không phải thơ tình. Vậy mà bao nhiêu năm,
chúng ta vẫn coi đấy là tình yêu, thậm chí là thơ tình tiêu biểu, mẫu mực, về
một tình yêu luôn gắn liền với nhiệm vụ, gắn liền với cộng đồng. Cám ơn câu thơ
đã mở cho chúng ta thấy, có một thời chúng ta làm thơ tình theo kiểu áp đặt như
thế. Áp đặt những gì chúng ta muốn, còn thực tế, đời sống không phải như vậy.
Tình yêu cũng không phải như vậy. Ngay từ những năm ấy, cũng chẳng có ai yêu
nhau như thế. Tài đến như Xuân Diệu, lớn đến như Xuân Diệu mà “ông hoàng thơ
tình” này cũng không thoát ra nổi những quan niệm chật hẹp và ấu trĩ của
một thời. Nói vậy, cũng là để cảm thông hơn với Xuân Diệu. Chúng ta càng thấy
thương ông. Thương
mình. Và thương cho cả một
thời. Thời ấy nó như thế.
Thật may mắn cho Bảo Ngọc, chị còn quỹ thời gian. Mênh mông thời gian. Chị
lại được sống trong một thời đại mới. Thời đại mở cửa, mà trong đó, tư duy ít
nhiều cũng đã được giải phóng. Thơ chị không bị trói buộc bởi những quan niệm
hẹp hòi. Đọc chị, ta chẳng thấy vương một hạt bụi nhiệm vụ nào, ngoài sự thao
thức khôn nguôi của trái tim thi sĩ!
II
Nếu ví thơ ca như một người con gái đẹp, thì
“nàng thơ” này luôn xúng xính “khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu”. Hoàn toàn là
trang phục truyền thống. Giọng điệu “cô nàng” cũng lạ. Rất hiện đại nhưng lại
quen thuộc. Vô cùng quen thuộc. Ta đang nghe những câu hát đúm mang phong vị
dân gian. Mà cụ thể hơn, đây là cuộc song đối giữa nữ Phật tử với một Ẩn Sĩ. Chính Bảo Ngọc cũng đã lý giải: “Khi
cầm tập Bến trăng trên tay, hẳn bạn
sẽ thắc mắc, nhân vật Ẩn Sĩ là ai và vì sao lại cùng xuất hiện trong tập thơ
này? Bạn bè tôi cũng từng hỏi như vậy khi tập thơ mới chỉ ở dạng bản thảo và
chưa hề có ý định xuất bản. Tôi thành thật xin lỗi vì chỉ muốn giữ lại chút bí
mật riêng tư nên không thể làm thỏa mãn sự tò mò của quý bạn. Trong dòng đời vô
thường, cơ duyên của những cuộc gặp gỡ và tao ngộ vốn hiện hữu nhưng cũng mong
manh như gió thoảng mây bay...”
Mong manh nhưng vẫn hiện hữu. Đó là một vị Cao
Tăng: “Thuyền thầy nhẹ lướt con theo với...”.
Vừa thật, vừa linh thiêng như một ảo ảnh: “Thiên
thu in dấu ngàn mây trắng/ Dặm trần gót ngọc đã xanh rêu/ Hương thiền vời vợi
hồn sông núi/ Chắp búp sen hồng con bước theo...”. Nữ thi sĩ tự xưng mình
là “Con”. Rồi có lúc lại là “Em”. “Em” không phải là ở vị trí của người thương,
mà là danh từ chung chỉ tấm thân nhi nữ mỏng manh, yếu đuối trong sắc sắc không
không của cõi vô thường: “Thuyền lẻ em
chèo tới bến không...”.
Lặng lẽ đi theo bước chân thầy, để rồi lại đến
“bến không” của tuệ giác. Nhưng Ẩn Sĩ dường như lại là con người có thật, con
người của cõi trần thế, ở một vùng sông nước Nam Bộ: “Miền Tây nước cuộn ngang
trời!/ Lục bình xuôi ngược lặng trôi con đò/ Người về để bến bơ vơ/ Bên sông ta
đợi con đò năm xưa”.
Rất trần thế với nỗi nhớ thương của con người
nơi cát bụi. Gần đấy mà xa đấy. Như đôi bờ của một con sông: “Thân phận khác nhau thầy với trò/ Phật tâm
vô trụ chớ sầu lo/ Thầy trò trao đổi không e ngại/ Cố chấp làm chi nỗi vẩn
vơ...”.
Vẩn vơ nhớ thương là tình cảm rất thật của con
người nơi trần thế, nhưng cũng tinh khiết thoát tục, bởi đó là bậc du tăng.
Người như đang trụ trì một ngôi chùa tưởng giữa chốn trần ai mà hóa nơi tiên
cảnh: “Mưa rơi, gió lạnh, núi mù sương/ Yên
tĩnh, chùa xa nơi phố phường/ Lời kinh niệm Phật còn ngân mãi/ Nhẹ bước kinh
hành tỏa ngát hương/ Núi đứng lặng yên sương phủ dầy/ Hòa nhịp rừng cây tiếng
gió lay/ Gà chùa rét lạnh còn quên gáy/ Tiểu mở cổng chùa đón gió mây...”
Và như thế, khi Người đi, nữ Phật tử đưa tiễn,
tưởng đưa tiễn một con người, hóa ra là một vị Tên Phật, một làn hương tinh
khiết: “Thăng Long thơm mãi dấu chân
người...” . Và theo bước chân Người “nhẹ
gót vân du khắp thế gian” , ta lại tới “Bến
trăng”, tới “Bờ mây” trong cõi
bồng lai tiên cảnh nào đó...
Thật mà ảo. Ảo mà thật. Cả tập
thơ là những cuộc song đối. Có lúc hai. Có lúc một. Chỉ đơn phương một lời độc
thoại. Nhưng một mà vẫn thấy hai. Như tâm với thân. Như bóng với hình. Đây là
hiện thực, hay sự phân thân, một thủ pháp nghệ thuật của tác giả? Khó mà phân
biệt được!
Chỉ biết rằng, đọc Bảo Ngọc, ta như đi trong
chiêm bao. Mờ mờ quanh ta là một thứ ánh sáng kỳ ảo, mầu nhiệm. Không biết đó
là ánh sáng tỏa ra từ trăng sao, từ sông nước hoa cỏ, hay từ chính tâm hồn ta,
tâm hồn của các thi nhân. Ta cũng không biết nữa...
Và khi những dòng chữ cuối cùng
khép lại, ta thấy mát lành như vừa bước lên từ một hồ sen, hay một buổi tọa
thiền.
Đã lâu lắm rồi tôi mới có
cảm giác như thế khi đọc Bảo Ngọc. Đó là đóng góp riêng của chị cho nền thơ của
chúng ta chăng?
Hà Nội 8-3-2015
TĐK
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét