Nhà thơ Hoàng Minh Châu tặng hoa nhà thơ Bằng Việt
Tọa đàm về Lớp nhà thơ hình thành trong kháng chiến
chống Mĩ
Sáng
10 tháng Tư, tại trụ sở Hội Nhà văn, số 9 Nguyễn Đình Chiểu, Hà Nội, Ban chủ
nhiệm Câu lạc bộ văn chương tổ chức tọa đàm về chủ đề : Lớp nhà thơ hình thành trong kháng chiến chống Mĩ. Đông đảo các
nhà thơ và bạn đọc đã tham gia.
Nhà thơ Hoàng Minh Châu, đại diện cho lớp nhà thơ
chống Pháp tặng hoa cho nhà thơ Bằng Việt, đại diện lớp nhà thơ chống Mĩ. Ông
phát biểu nói lên lòng tự hào về lớp nhà thơ hình thành trong kháng chiến chống
Mĩ, lực lượng chủ đạo của nền thi ca nước nhà.
Nhà thơ Bằng Việt nhắc lại kỉ niệm khi cùng với Lưu
Quang Vũ in tập Hương cây-Bếp lửa. Ba
nhà thơ biên tập , giúp đỡ khi ấy là Yến Lan, Khương Hữu Dụng và Hoàng Minh
Châu. Nay chỉ còn nhà thơ Hoàng Minh Châu. Ông nói bây giờ đã là 50 năm kể từ
khi đế quốc Mĩ ném bom xâm lược miền Bắc.
Nh ìn lại, ấn tượng sâu sắc của
thế hệ ông là nhập cuộc đánh Mĩ cùng lúc với nhập cuộc văn chương. Có điều hơi băn khoăn là có nên
dùng chữ “chống Mĩ” hay không? Có thể gây ra hiểu lầm không? Ông tự trả lời đây là việc nói tắt có tính
lịch sử. Nhà thơ cũng nêu lên một số vấn đề cần thảo luận như : - Một thế hệ
hình thành trong kháng chiến chống Mĩ, những người sinh ra ở thập kỉ 40, không
bao gồm các nhà thơ tham gia chống Pháp; - một số trường hợp chỉ có một bài thì
xử lí thế nào? Mở rộng ra, nhà thơ nói về vấn đề quan hệ hình thức và nội dung,
cách tân như thế nào là hợp lí; sự vượt
lên và đổi mới của lớp nhà thơ chống Mĩ;
việc đấu tranh với những quan điểm hẹp hòi trong cơ chế quản lí. Bằng Việt dẫn
lại một câu thơ của Huy Cận : Đời chẳng
ra chi ta dựng lại đời. Dựng lại rồi, vẫn có khiếm khuyết thì phải sửa dần
dần, chứ không thể cực đoan.
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân khẳng
định đóng góp của lớp nhà thơ chống Mĩ là tiếp nối dòng chảy thi ca bằng tiếng
Việt. Ông khẳng định tình cảm yêu nước là lớn nhất, rõ nhất. Ông dẫn Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn
Khoa Chiêm, trong đó miêu tả lính hai miền đánh nhau, nhưng vẫn nhắc đối phương
nằm xuống tránh pháo bắn. Và dự cảm rằng đến lúc nào đó có thể sẽ có sự “chuyển
nghĩa” hoặc “sứt mẻ” về cách nhìn chiến tranh. Ông cũng nêu nhận xét là lớp nhà
thơ chống Pháp, nhiều người dùng tốt ngoại ngữ, nhất là tiếng Pháp, còn
lớp nhà thơ chống Mĩ thì hạn chế hơn, ít
người có thể đọc được tiếng nước ngoài.
Nhà thơ Vũ Quần Phương so sánh thơ hai miền trong thời kì đó. Ở đô
thị miền Nam
vẫn trong bầu khí quyển thơ mới, đề cao Xuân Diệu, Huy Cận như Nam Tào, Bắc Đẩu, không có nhiều “cựa quậy” đổi
mới như miền Bắc. Đặc điểm nhập cuộc là đặc điểm quan trọng của lớp nhà thơ
chống Mĩ. Trong cuộc thi thơ báo Văn Nghệ, những người lính làm thơ chiếm hầu
hết giả A.
Nhà thơ Anh Ngọc cho rằng thời điểm
chống Mĩ cần tính sớm hơn tháng 8 năm 1964. Ngay khi ta đánh Điện Biên, cũng đã
là đánh Mĩ rồi vì khi ấy Mĩ viện trợ Pháp. Nhà thơ tự hào là đã tham gia vào
cuộc kháng chiến của dân tộc. Ông tự hào về những thành tựu thơ của đòng đội,
đồng nghiệp như Lưu Quang Vũ, Bằng Việt. Ông kể lại chuyện đã đọc thơ của lính miền Bắc, khiến cho anh bạn phía Việt Nam cộng
hòa khâm phục.
Nhà thơ Vân Long được mời phát biểu về
đội ngũ các nhà thơ chống Mĩ ở đất Cảng, nơi Mĩ bắn phá, thả thủy lôi dữ dội.
Nhà thơ nói sẽ tham luận trong hội thảo sau này, hôm nay xin nhường lời cho mọi
người.
Nhà
nghiên cứu, phê bình Văn Giá nói rằng thế hệ anh sống trong khí quyển
chống Mĩ. Thời đó, không được học thơ mới trong nhà trường, cho nên lòng yêu
thơ gắn liền với thơ chống Mĩ. Hai điểm
chú ý trong thơ thời kì này là tiếng nói lớn, cảm hứng lớn, tình cảm lớn
về đất nước, dân tộc, thời đại luôn nổi bật. Tiếng nói thế sự, thường nhật, cá
nhân thường bị khuất lấp. Bây giờ cần phải “lấp đầy”. Anh cho rằng thơ của Lưu
Quang Vũ về những u buồn, cay đắng là đáng chú ý. Một số thơ của Thanh Thảo
cũng nói về thế sự, đời tư. Anh khẳng định một thành tựu lớn của thời kì này là
những trường ca.
Văn Giá trao đổi lại vỡi Vũ Nho là
không cần nhắc lại thuật ngữ minh họa, một số luận điểm trong bài báo của
nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng thơ
chống Mĩ có phiến diện, nhưng là sự cần thiết. Giống như người lính ra trận
không nói bị thương, hoặc hi sinh ở chiến trường để cho người ở hậu phương yên lòng.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều kể lại kỉ
niệm thời đó. Cứ 10 giờ tối là anh nghe tiếng thơ trên đài. Nhà thơ cũng khẳng
định là có hiện tượng muốn phủ định, có ý kiến về sự “đổi gác”.
Nhưng anh cho rằng qua các nhà thơ Mĩ,
các nhà Việt Nam
học sống ở Mĩ, các bài thơ dịch ở Mĩ, càng thấy rõ thơ thời kì đó đáng được tôn
vinh. Thời kì đó là thời kì có sự cộng hưởng lớn trong mọi lĩnh vực của đời
sống đất nước. Tư thế của nhà thơ và tư cách của người làm thơ rất cao. Vẻ đẹp
bi tráng của thời đó tạo nên tính sử thi. Trong thơ thời đó có tiếng nói đời
thường nhất của con người. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều cho biết ở Mỹ đã xuất bản
tập “ Thơ trong những tài liệu bị bắt giữ”. Đây là những bài thơ chép trong sổ
tay của các chiến sĩ ta. Người Mĩ kinh ngạc vì hầu như sổ tay nào cũng vẽ chim
hòa bình, và những bài thơ đó sau khi được dịch ra tiếng Anh đã làm bạn đọc Mĩ
kính trọng “kẻ thù” của mình.
Chị An Kì, một nữ độc giả hoan nghênh
việc làm của Hội nhà văn. Chị mong muốn sớm được thấy tuyển thơ của lớp nhà thơ
chống Mĩ.
Nhà thơ Bằng Việt tán thành với việc
đặt vấn đề của Vũ nho. Ông cho rằng nên đặt nhan đề “ 50 năm lớp nhà thơ chống
Mĩ cứu nước”. Ông thấy cũng cần chọn
thêm các tác giả viết ở đô thị miền Nam ,
vùng giải phóng miền Nam .
Cần chú ý đến thơ của Việt kiều ở nước ngoài như Thu Trang, Nguyễn Hồi Thủ.
Nhà thơ Hữu Thỉnh phát biểu với tư
cách là một người làm thơ trong đội hình. Bây giờ đã là 14 năm của thế kỉ XXI
đủ độ lùi để đánh giá thơ thế kỉ XX, trong đó có thơ kháng chiến chống Mĩ. Ông
đề nghị thảo luận về thời điểm từ ý kiến của nhà thơ Anh Ngọc. Ông cho biết Mĩ
định ném bom nguyên tử xuống Điện Biên. Cụ Hồ cho giải hơn 1 vạn tù binh Pháp.
Mĩ không dám thực hiện ý định. Nhà thơ
cũng thảo luận lại với nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân về việc lớp nhà thơ chống
Mĩ không thể đọc tiếng nước ngoài. Ở đây có sự nhầm giữa điều kiện và hiệu qủa.
Ông chứng minh nhà thơ Huy Thông rất giỏi tiếng Pháp, nhưng thơ của ông không
thể phổ cập bằng Nguyễn Bính. Bài nổi tiếng nhất của Huy Thông lại là viết về
câu chuyện bên Tàu. Ông cho rằng thơ chống Mĩ đã phản ánh sâu sắc số phận con
người trong chiến tranh. Trẻ em đi học phải có mũ rơm. Tỏ tình nam nữ phải cạnh
hố cá nhân. Con chó vàng cũng không thể yên khi bom Mĩ nổ. Ông nói cảm giác riêng, thích bài thơ Hoa dành hơn bài Hoa xấu hổ của Anh Ngọc. Ông cho rằng cái hay nhất của thơ chống Mĩ
cứu nước là ý thức thế hệ.
Nhà thơ Vũ Quần Phương cám ơn tất cả
các ý kiến phát biểu và kết thúc tọa đàm.
Vũ
Nho lược thuật
Hội trường
Nhà thơ Vũ Quần Phương
Nhà thơ Anh Ngọc
Nhà thơ Hữu Thỉnh phát biểu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét