Thứ Tư, 23 tháng 4, 2014

Có một người con gái…







Có một người con gái…
  
Hoàng Dân
             Hãy bắt đầu từ cái “dải yếm” trong câu ca dao: Ước gì sông rộng một gang/Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi.
Ai từng sinh ra và lớn lên ở một làng quê thuần nông với đủ cây đa, bến nước, sân đình, lũy tre thì trong kí ức hẳn còn đọng lại những lời ru, mà phần nhiều lời ru thường là những câu ca dao được cất lên bằng một giọng điệu tha thiết nao lòng. Dường như người ru đang giãi bày tâm sự của chính mình? Có nỗi niềm của thân phận lênh đênh. Có nỗi hờn giận của số phận hẩm hiu. Và có cả nỗi sầu tủi của duyên tình lỡ dở... Những nỗi niềm ấy thì đời nào mà chẳng có? Nhưng, ngày xưa, trong một không gian quá hẹp của lũy tre làng và trong sự cương tỏa khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến thì những nỗi niềm ấy có thể đậm đặc hơn, nghiệt ngã hơn và dễ dẫn đến nguy cơ khủng hoảng tuyệt vọng hơn?! Có lời ru rằng:
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi*
Có biết bao con sông và cái cầu trong ca dao? Có lẽ nhiều lắm! Bởi mỗi con sông, mỗi cái cầu là một mảnh tâm trạng, một nỗi niềm, thậm chí là một cuộc đời! Thử xem:

                                                          - Ước gì sông Cái có cầu
            Để em sang giải cơn sầu cho anh
                                                               - Ước gì bể hẹp như ao
                 Bắc cầu đòn gánh mà trao nhân tình
                                                                - Hỡi cô cắt cỏ bên sông
                          Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang
                                                                - Qua cầu ngả nón trông cầu
                    Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu
...
Con sông và cái cầu cứ trở đi trở lại trong ca dao như một món nợ cách sông trở hói không sao lấp đầy trong tâm trạng của những lứa đôi từ xưa tới nay và có lẽ cả mãi mãi sau này. Con sông thường là sự vật tự nhiên (có con sông nhân tạo, nhưng số lượng hẳn không đáng kể!), tượng trưng cho sự ngăn cách; trong câu ca dao, con sông còn là một khoảng không gian trống vắng rợn ngợp của tâm trạng con người. Con sông thì bao giờ cũng có, nó nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người, nghĩa là sự ngăn cách, nỗi bất hạnh dường như là vĩnh cửu. Cái cầu là sự vật nhân tạo, tượng trưng cho sự nối liền; trong câu ca dao nó là biểu tượng cho gặp gỡ, hòa hợp, hạnh phúc. Nhưng oái oăm thay, không phải ở đâu, lúc nào và bao giờ con người cũng có thể dễ dàng bắc được một cây cầu qua sông. Có cây cầu là ước mơ của nhiều đời...
Không thể bắc được cầu vì con sông quá rộng! Không thể đến được với nhau vì khoảng cách quá xa! Không thể với tới tình yêu vì hình như nó quá cao?... Với bao nhiêu cái không thể  như vậy, thử hỏi con người còn biết làm gì nếu không ước mơ? Có một giai thoại kể rằng, sau khi hoàn tất việc sinh ra muôn loài trong vòng sáu ngày, tới ngày thứ bảy (tức chủ nhật), Chúa nghỉ ngơi để chuẩn bị về Trời. Đến cuối ngày chủ nhật (Chúa nhật-ngày Chúa nghỉ), trước khi về Trời, Chúa trao cho một bà già một cái túi vải có dây thắt kín miệng và dặn: “Ta đã nhốt tất cả các tai hoạ của loài người ở trong này, nay ta giao cho con cất giữ. Tuyệt đối không được mở miệng túi ra!”. Thế nhưng, sau khi Chúa đã về Trời, với bản tính tò mò cố hữu của con người, bà già bèn mở miệng túi ra. Ngay lập tức, các tai hoạ như chiến tranh, bão lụt, dịch bệnh… ào ạt tuôn ra. Bà già kinh hãi, vội túm chặt miệng túi và áp sát vào ngực mình, miệng lầm rầm cầu xin Chúa rủ lòng thương. Từ trên cõi cao xanh vòi vọi, Chúa mỉm cười độ lượng: “Rất may cho con là trong túi vẫn còn sót lại một cái hạt hi vọng đang nảy mầm…”. Nghĩa là, trong bất kì hoàn cảnh nào, dù thân phận có bèo bọt đến đâu chăng nữa thì ai ai cũng có cái quyền được ước mơ và hi vọng! Phải chăng đây cũng chính là một ân huệ mà Chúa dành cho loài người?!
Cô gái mơ ước điều gì? Cô ước cho khoảng không gian thu hẹp lại trong tầm với của mình. Cái nghịch lí giữa sông rộng với một gang thật ra chẳng có gì phi lí bởi nó chỉ là ước mơ thôi mà! Nó là một mảnh tâm trạng hoang mang vô vọng trước dòng sông thời gian vô hình đang lạnh lùng cuốn theo cả tuổi xuân của người con gái để ném vào quên lãng. Sẽ có một kiếp người trở thành hư vô ngay trong khi đang sống giữa nhân quần bởi vì nó chưa hề được nếm trải hương vị của tình yêu và hạnh phúc, cái mà lẽ ra đương nhiên con người phải được tận hưởng. Từ ước mơ ấy sẽ dẫn tới một hành động khá là táo bạo, quyết liệt. Hành động gì? Hành động bắc cầu. Với một khoảng cách vừa đủ thì cô gái sẽ quyết tâm hành động, điều đó cũng bình thường thôi, chẳng có gì đáng nói! Điều đáng kinh ngạc là cái vật liệu mà cô gái sẽ dùng để bắc cầu: bắc cầu dải yếm! Có lẽ ngày nay rất ít bạn trẻ có thể hình dung ra nổi cái dải yếm ngày xưa nó như thế nào? Nó là một tấm vải diềm bâu (loại vải dệt bằng phương pháp thủ công, thô, dày, bền), nhuộm nâu (bền hơn nữa), cắt lựa theo thân người phía trước, che kín cả ngực và bụng, có ba đôi dải (buộc sau gáy, sau lưng và trên thắt lưng). Nhà giàu thì có yếm lụa, yếm sa tanh, yếm vóc... với đủ sắc màu rực rỡ, nhưng thường là yếm đào, yếm thắm. Với cô gái nghèo thì bên ngoài cái yếm nâu sồng là cái áo cánh nâu, ngoài áo cánh nâu có thể còn áo tứ thân, ngoài áo tứ thân là thắt lưng bao (một kiểu ruột tượng bằng vải mềm). Tóm lại, dải yếm là sự vật nhân tạo, nhỏ bé, bất li thân, cực kì kín đáo, không thể tuỳ tiện tháo cởi để trao tặng như các đồ trang sức khác (nếu có). Người con gái xưa chỉ được phép trao tặng dải yếm cho một người con trai duy nhất và trao tặng có một lần là kể như chấm dứt một đời con gái. Đối với người con gái bình thường thì dải yếm là bằng chứng cho sự trinh tiết, còn đối với một cô gái nghèo thì dải yếm là một báu vật của tình yêu. Lại thử điểm qua một số câu ca dao có cái dải yếm:
-          Thuyền anh mắc cạn lên đây
Mượn đôi dải yếm làm dây kéo thuyền
-          Trầu em têm tối hôm qua
Giấu trong dải yếm lấy ra mời chàng
-          Đêm đông gió rét kìn kìn
Đắp đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông
-          Yêu chàng biết để vào đâu
Đùm đầy dải yếm lâu lâu lại dòm
...
 Ngày xưa, tình yêu và hôn nhân là hai việc hoàn toàn khác nhau. Trai gái có thể phải lòng nhau (bây giờ gọi là tình yêu!), nhưng có nên vợ nên chồng hay không lại là chuyện khác. Tình yêu vấp phải một cái ba-ri-e lễ giáo phong kiến khắc nghiệt với những nam nữ thụ thụ bất thân; nam đáo nữ phòng nam tắc loạn, nữ đáo nam phòng nữ tắc dâm... Còn hôn nhân lại là việc quá ư hệ trọng và phiền toái. Nó phải thỏa mãn những quyền lợi của làng xã, của gia tộc rồi mới đến quyền lợi của lứa đôi. Nó có cả một sê-ri những nghi thức, những thủ tục quá nhiêu khê, rườm rà. Tóm lại, nó phải môn đăng hộ đối theo một thứ đạo lí mang tính áp đặt cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy! Như thế mà dám mơ ước lấy được người mình yêu thì quả là quá khó! Nhất là đối với người con gái. Do đó hôn nhân mang tính may rủi thật khó lường! Tình cờ vớ được một người đàn ông tử tế thì cũng bõ một kiếp đàn bà con gái, nhưng chẳng may bị buộc vào một gã vũ phu thì coi như hết phúc. Hết phúc nhưng vẫn có chồng, có chồng thì lấy con làm lãi, vì thế người phụ nữ vẫn cắn răng chịu đựng những ông chồng bất hảo để hi vọng vào con cái. Tính nhẫn nhịn và đức hi sinh của người phụ nữ Việt Nam thật đáng cảm động khi mà họ cất lên lời ru:
                                              - Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi nhỏ lửa có đời nào khê?
hoặc:
  - Chàng ơi giận thiếp làm chi
                                             Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng!
Nói như thế để thấy rằng méo mó có hơn không! So với những người phụ nữ đi hết một kiếp người mà không được hưởng quyền làm vợ, làm mẹ thì những người phụ nữ bất hạnh kia vẫn có phần may mắn hơn!
Xin trở lại với cô gái trong câu ca dao đang bàn. Cô gái sẵn sàng tháo tung cái dải yếm ra giữa thanh thiên bạch nhật, giữa trời mây sông nước mênh mang để trao tặng nó cho chàng! Vậy chàng là ai? Chàng sẽ ứng xử với hành động dâng hiến tuyệt đối của cô gái ra sao? Xin thưa, chàng ở đây chỉ là một gã trai vãng lai, một gã cha vơ chú váo... nào đó mà thôi! Chàng chỉ sang chơi thôi chứ không phải sang để chạm ngõ, bỏ trầu và càng không thể có chuyện đón dâu! Vậy mà cô gái dám cả gan bất chấp lễ giáo phong kiến để manh động đến như vậy? Liệu có nhẹ dạ và dễ dãi quá hay không? Có là con thiêu thân mù quáng quá hay không? Có thể! Nhưng phải đặt tâm trạng của cô gái trong một hoàn cảnh thật cụ thể. Đó là khoảnh khắc khủng hoảng của một cô gái lỡ làng duyên phận. Dòng sông thời gian vô hình thì cứ lạnh lùng cuốn đi cả tuổi xuân và những niềm hi vọng mong manh của cô. Cô đã từng trải qua những giờ phút hi vọng, âu lo, hồi hộp... để cuối cùng rơi vào trạng thái tuyệt vọng! Khi đã không còn gì để mà ngóng đợi cũng có nghĩa là chẳng còn gì để mất và những dồn nén tích tụ tất phải bùng nổ thành một cuộc nổi loạn, đó là cuộc nổi loạn của bản năng vô thức.
Vì vậy, cô gái đáng thương hơn là đáng giận, cần được sẻ chia thông cảm hơn là hắt hủi xa lánh... Phải chăng đó chính là chút dư vị buồn của một lời ru?!
                                               Núi Bò – Hà Nội. 14.2.2004

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét