VNNB: Đây là bản gốc của VN, đăng lại như một tư liệu
VỀ THƠ VÀ SỰ ĐỔI MỚI CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU
Vũ
Nho
Chắc là
những người viết nghiên cứu và phê bình sẽ còn tốn không ít giấy mực về trường
hợp Nguyễn Quang Thiều và thơ của anh. Nhân dịp nhà thơ in cuốn thơ tuyển lần
thứ nhất CHÂU THỔ ( 2010), đã có 25 bài viết xung quanh thơ và cách tân thơ của
tác giả. Sau khi đọc cẩn thận hết tập thơ tuyển, đọc kĩ càng hết 25
bài viết, tôi muốn ghi lại mấy cảm nhận
của mình.
1.
Tiềm năng của một nhà thơ lớn
Nguyễn
Quang Thiều có bằng Đại học nước ngoài, điều đó không quan trọng lắm. Nhưng một
nhà thơ bắt đầu viết khi có bằng Đại học nước ngoài, khi có thể đọc thành thạo
thơ thế giới bằng tiếng Anh như Nguyễn Quang Thiều, thì nước ta không có nhiều.
Tiếp xúc với các nền văn hóa khác nhau là một lợi thế lớn để Nguyễn Quang Thiều
mở rộng, làm giàu có vốn văn hóa của người cầm bút. Vả chính điều đó làm tăng nội
lực của nhà thơ, làm cho người viết có thể tự tin viết những bài thơ tầm cỡ
không giới hạn ở biên giới nước mình.
Đấy chỉ là điều kiện cần cho một nhà thơ lớn chứ không phải
là điều kiện quyết định. Cái quyết định nhất chính là tài năng bẩm sinh của thi
sĩ được phát triển một cách mạnh mẽ nhờ hoàn cảnh đất nước đổi mới, hội nhập.
Có thể thấy rằng Nguyễn Quang Thiều đạt đến độ chín của tài năng không quá sớm,
nhưng cũng không quá muộn mằn. Chỉ sau tập thơ đầu tay trình làng, anh đã có tập
thơ “ Sự mất ngủ của lửa” gây được tiếng vang, được tặng giải thưởng của Hội
nhà văn Việt Nam .
Cái chính là phẩm chất thi sĩ được phát lộ, được khẳng định. Phải nói rằng bài
thơ “Dâng trà” của anh viết là một bài thơ hay, một trong các bài thơ khá toàn
bích theo bút pháp thông thường.
Thưa cha con đã dâng trà
Chiều
quê một nửa mái nhà nắng đi
Có nắng hắt,
có nắng reo, có nắng lên, có nắng xuống,...
nhưng hiếm nắng đi, mà nắng đi đã nửa
mái nhà là dấu hiệu của chiều. Những câu thơ tiếp theo là nỗi niềm ăn năn hối lỗi
của người con “ ba dại bảy điên”. Hai câu kết của bài thật đặc sắc:
Để hồn trà khuất đâu đây
Xác trà lạnh ngắt đổ đầy lòng con.
Dâng trà cho cha, không biết cha có nhận cho, có tha
thứ những lỗi lầm thuở ấu thơ. Vì cha chỉ như bóng mây im lặng, nên người con
xót xa. Hồn trà dâng cha, mung lung không thấu được, còn xác trà con giữ lại,
trần trụi, cầm nắm được, lạnh và đầy lòng con.
Tôi dám
đoan chắc rằng bài thơ “Bây giờ đang cuối mùa đông” cũng là một bài thơ đặc sắc
không phải người làm thơ nào cũng viết được. Nó thể hiện thật tài tình tâm trạng
của một chàng trai muôn vợ ở cái làng mà lớp lớp cô gái theo nhau lớn lên, đi lấy
chồng. Có một vài câu làm duyên độn vào, nhưng chí ít đó cũng là những câu thơ bình thường làm nền tôn vẻ đẹp những câu thơ
hay.
-Chút chiều hoe nắng ngõ nhà
Tôi
đi tôi đứng để mà vu vơ
-Ra
đường gặp tiếng xưng em
Đêm
về tôi với ngọn đèn nhìn nhau
Có một sự khác biệt rất lớn giữa sự tìm tòi và cách tân của
Nguyễn Quang Thiều với các nhà thơ khác “nhân danh cách tân”. Đó là Nguyễn
Quang Thiều đã chín với cách viết truyền thống, thường gặp, anh tìm cách diễn đạt
mới. Còn những cây viết khác thì làm một nhà thơ bình thường cũng chưa xong, đã
bập vào cách tân để mong đi tắt trên đường
sáng tạo.
Nguyễn
Quang Thiều do tiếp xúc văn hóa rộng, nên chắc chắn anh có chịu ảnh hưởng của
các nhà thơ phương Tây, viết có vẻ Tây. Nhưng người Việt chúng ta vốn khá mau
quen với những gì lạ nhập từ Tây vào. Như Hoài Thanh đã từng viết, chúng ta mau
quen với thắp dầu Tây, mặc quần Tây, đi
giầy Tây, …Cả cách xã giao bắt tay cũng là theo kiểu Tây, chứ các cụ nhà ta
ngày xưa chào nhau và dạy con cái cách chào không như thế.( Bây giờ là thời hội
nhập và toàn cầu hóa nên những cái Tây
càng được quen rất nhanh).
Xuân Diệu
khi mới xuất hiện cũng bị coi là Tây, nhưng chỉ ít lâu sau, thơ Xuân Diệu là
thơ Việt hoàn toàn, mà Việt rất hiện đại. Những câu thơ:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho
màu đừng nhạt mất
Tôi
muốn buộc gió lại
Cho
hương đừng bay đi
viết từ thời thơ mới, nhưng thật không khác gì câu thơ
của nhà thơ Mĩ viết bây giờ.
( Xem Sam Hamill :
Cơn gió này để trôi đi
mọi thứ
nó chạm tới
Tôi muốn
được giữ nó lại
Sự giằng xé của một người đang yêu, trong tập Tiếng vọng từ bờ kia thế giới,
nxb Hội nhà Văn, Hà Nội, 2012)
Nguyễn Quang Thiều không bị coi là Tây, nhưng bị coi
là thơ Tây dịch. Bởi vì những bản dịch của chúng ta thường là trúc trắc, không
mượt mà. Đấy là một nhược điểm làm hạn chế sức thuyết phục của thơ anh.
Nhưng những bài thành công khi đổi mới của Nguyễn
Quang Thiều là những bài thơ vẫn gắn bó
và phát triển trên nền thơ truyền thống. Lấy ví dụ bài thơ “LỄ TẠ” chẳng hạn. Kết cấu đầu cuối tương ứng.
Có thủ pháp đối lập trong “Tĩnh dạ tứ “ của Lí Bạch , có câu hỏi tu từ, có cách
nói ngoa dụ… Đáng tiếc là những bài thơ như vậy không nhiều.
Có thể
thấy ham muốn đổi mới, viết khác đã làm cho Nguyễn Quang Thiều từ bỏ phần lớn (
chứ không phải từ bỏ tất cả) cách diễn đạt
hàm súc, nhịp điệu với ngôn từ chắt lọc, cô đúc. Nhưng như đã nói, Nguyễn Quang Thiều là nhà
thơ có tài năng, vì thế mà vẫn có nhiều những câu thơ hay, vẫn có nhiều những
đoạn thơ có thể găm vào trí nhớ bạn đọc. Hoàn toàn không phải như một nhận định
thiên lệch rằng “ Không có câu thơ hay.
Không tứ thơ. Không có chữ thơ. Không có hình ảnh chính. Đọc xong một vài bài
thơ hoặc một tập thơ mỏng nào đó của nguyễn Quang Thiều, người đọc thực dụng sẽ
trắng mắt, khi không thu về được gì” ( Thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều,
nxb Hội nhà Văn, 2012, trang 145). Nhưng có cảm giác ít hay vắng thiếu là do những
câu này bị khuất lấp trong những triền miên liên tưởng, triền miên ẩn dụ, và những
câu thơ văn xuôi, thơ-tản văn, những câu
thơ “ Từ ngữ […] kềnh càng, thậm
chí không hiếm chỗ là “vô lối”, là “ông chẳng bà chuộc” “ ( Thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều,
đã dẫn, trang 173). Đây, một số ví dụ ngẫu nhiên về những câu thơ ám ảnh của
Nguyễn Quang Thiều:
Mẹ con đứng vùi chân trong cát
Nước mắt buồn bay ướt một triền sông
Tiếng cười
Ta khóc vụng một ngày thưa bóng mẹ
Tiếng gà buồn mổ rỗ mặt hoàng hôn
Mười một khúc cảm, I
Bầy kiến đen đi qua bàn tiệc
Như lang thang qua bãi chiến trường
Đầy mảnh thịt của gia sức
Đầy xác chết của rau thơm
Quả ớt đỏ như lá cờ rách nát
Bầy kiến ôm lên đắng cay nhòa mắt
Bò qua
da
Bò qua
xương
Trong rền
rĩ cơn lốc quạt
Bầy
kiến qua bàn tiệc
Xa hơn
nữa…một mùa thu thắm đỏ
Con rắn
nâu bò qua vườn trên lớp lá vàng cong
Xa hơn
nữa…tôi khóc cùng mùa hạ
Khi thấy
có một tôi đâu đó quanh vườn
Xa hơn
nữa…và, xa hơn nữa
Là nơi
tôi ngồi trước lửa
Một cơn
sốt ngồi ôm một cơn sốt
Thời
gian
Những
người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối
tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn
tay họ bám vào đầu đòn gánh bé nhỏ chơi vơi
Bàn tay
kia bấu vào mây trắng
Những người đàn bà
gánh nước sông
…
Nếu không theo đuổi ý tưởng đổi mới, tôi nghĩ Nguyễn
Quang Thiều vẫn đủ sức ghi tên mình vào tốp những nhà thơ có nhiều đóng góp cho
nền thơ của dân tộc. Bởi vì tài năng của anh là một điều không thể phủ nhận.
2.
Bước
quá đà của sự cách tân
Nếu xem
xét đơn lẻ từng yếu tố cách tân trong
bút pháp thơ Nguyễn Quang Thiều thì có
thể thấy rằng cũng không có gì gọi là đột phá, mới mẻ, chưa từng có trong thơ
Việt như một vài cây bút viết về anh đã ngộ nhận.
Tưởng tượng và liên tưởng ư? Đâu phải đến Nguyễn Quang Thiều mới có tượng tượng
và liên tưởng phong phú. Dù cố chứng minh rằng sự liên tưởng và tưởng tượng ấy
“lạ lẫm” với tâm thức chung của cộng đồng thì điều đó chỉ nói lên rằng sự quá
đà của Nguyễn Quang Thiều đã làm hạn chế sức lan tỏa của thơ anh.
Thơ văn xuôi ư? Đâu phải một mình Nguyễn Quang Thiều viết thơ văn
xuôi. Nhiều nhà thơ Việt đã thứ thách rồi. Đã có cả một tuyển tập thơ văn xuôi
Việt. Nhưng hình như các bài thơ thành công thật hiếm hoi.
Từ chối vần nhịp thông thường ư? Cũng chẳng phải Nguyễn Quang Thiều là người đầu tiên.
Mà từ chối vần, nhịp cũng chỉ là một cách làm khác đi mà nguy cơ thất bại nhiều
hơn là thành công.( Không kể có ý kiến
cho rằng “ Nhịp - điệu – Nguyễn- Quang- Thiều, nếu có thể nói như vậy, là thứ
nhịp điệu thơ tìm thấy tương đồng ở rất nhiều người viết trước, cùng thời và
sau;”
( Thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều, sách đã dẫn, trang 151).
Sử dụng ngôn ngữ không đặc tuyển cho thơ và không sử dụng
những quy phạm vần luật thơ truyền thống ư? Điều đó không riêng Nguyễn Quang Thiều. Mà làm như thế
dễ dẫn đến thất bại nhiều hơn là thành công nếu không có các yếu tố khác hỗ trợ.
Trùng điệp các thi ảnh ư? Cũng không phải. Vấn đề không nằm ở chỗ trùng điệp
hay không trùng điệp. Thi ảnh đẹp, gợi cảm, gây ấn tượng là thi ảnh mới mẻ, được
đặt đúng nơi, đúng chỗ trong bài thơ. Mà hệ thống thi ảnh thì mỗi nhà thơ có những
đặc điểm khác biệt khi xử lí.
Ca ngợi làng quê,
người phụ nữ, đất đai ( cánh đồng), ngọn lửa…cũng chẳng phải là độc quyền của
ngòi bút Nguyễn Quang Thiều. Khác chăng chỉ là ở chỗ cái làng ấy có tên cụ thể
: làng Chùa. Nhưng cánh đồng rau khúc, dòng sông, đầm sen, bầy chó, đàn bò đâu
phải là sở hữu riêng của làng Chùa?
Những giấc mơ như là mê sảng ư? Cũng chẳng có gì đặc biệt, khi nhà thơ nói về nhưng
giấc mơ đẹp đẽ, dữ dội, kinh hoàng. Vấn đề là điều đó đem lại cảm xúc gì cho
người đọc chứ không phải mơ để mà mơ, mê sảng để mà mê sảng.
Vậy
Nguyễn Quang Thiều làm mới ở chỗ nào :
Chính là ở chỗ vận dụng tất cả các yếu tố đó một cách tổng hợp. Khi vận dụng một
cách chừng mức và tỉnh táo, Nguyễn Quang Thiều thành công. Khi vận dụng quá đà,
Nguyễn Quang Thiều thất bại.
Tôi không cho rằng càng viết, càng đổi mới thì thơ Nguyễn Quang Thiều càng hay.
Mà chỉ thấy khi không chừng mực, say sưa với sự khác lạ, Nguyễn Quang Thiều tự
làm hỏng thơ mình. Tôi đọc nửa đầu của tuyển tập “Châu thổ” với sự thích thú, ngưỡng mộ, còn phần sau của tuyển
tập, quả thật là mệt mỏi. Vì thế mà nảy sinh ý nghĩ “ Tôi buồn khi Nguyễn Quang
Thiều đã đem một thi sĩ đích thực tài năng để đổi lấy một nhà cách tân tầm tầm. Mà
với thơ thì bạn đọc cần một nhà
thơ đích thực chứ đâu có cần danh hiệu nhà đổi mới thơ?”.
Để chứng minh rằng không phải riêng tôi phát hiện
ra sự thất bại trong việc đổi mới của Nguyễn Quang Thiều, xin dẫn ra đây những
ý kiến của những người viết cổ xúy cho nhà thơ. Tất nhiên, những dòng này thường
chiếm vị trí khiêm tốn, và thường rất ngắn ngủi, được nói ở mức độ giảm nhẹ nhất
có thể. Nhưng đó là những điều “nói thật”, thật hơn nhiều so với những ngôn từ
ca ngợi trong đó không ít những bốc đồng, thái quá và nói lấy được. Các nhận
xét này được chia làm ba loại. Một là dẫn lại những ý kiến của người khác để rồi
phản bác (ít thôi); hai là dẫn các ý kiến của người khác, một cách khách quan,
dù ở các mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp, thể hiện sự đồng tình ( phần
lớn); và ba là bộc lộ trực tiếp nhận xét của người viết.
“Thơ Nguyễn Quang Thiều có cả những mặt hạn chế như sự
rườm lời bởi quá nhiều định ngữ nghệ thuật, cảm xúc nhiều khi chưa được tiết chế
làm tổn hại đến nhưng bí mật cần giấu kín để kích thích sự khêu gợi sâu xa…” ( Thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều, sách
đã dẫn, trang 33 – Tiếp theo là những trang dẫn của cùng cuốn sách này).
“ Ngay
cả một vài cây bút bình luận với đầy thiện cảm vẫn phải nói rằng thơ Nguyễn
Quang Thiều “khó hiểu” “ ( trang
60).
“ Để
tìm được chất thơ trong mênh mông “Châu thổ” quả thật không dễ” ( trang 82).
“ Tôi
có dịp đọc trích đoạn ( trường ca Lò mổ
VN chú) trên mạng. Thú thật là thấy nặng nề. Không chỉ trong thơ dài, cả trong
thơ ngắn của Nguyễn Quang Thiều cũng ngày càng vơi đi chất lãng mạn, hoang dại”.
( trang 132).
“ Hai
lí do làm thơ Nguyễn Quang Thiều bị hiểu như “thơ dịch”, bị
đọc là “đơn điệu”. Một, thơ này gần như mất nhịp thở của thơ Việt : nhịp thơ lục
bát; hai, tận dụng việc văn xuôi hóa khi tạo ra một thể thơ tự do khác và lạ” ( trang 150).
“Các
biến đổi tốt đẹp của giọng điệu thì chìm ẩn; những cái dở hoặc chưa đạt lại nổi
lên. Một số độc giả đã ngưng đọc thơ Nguyễn Quang Thiều ngay khi gặp vài bài,
thậm chí vài câu, đoạn vô tình lọt mắt.
Tiếc! “ ( trang 153)
“Chưa
kể, thơ Nguyễn Quang Thiều hầu hết là một giọng, lại kéo dài lê thê. Bởi vậy, đọc
Nguyễn Quang Thiều, trừ những bài đặc sắc về ý tưởng, còn thì đa phần là rất mệt”
( trang 173).
“ Vì
vậy, nhiều người cho rằng thơ Nguyễn Quang Thiều ảnh hưởng thơ Tây và khó hiểu.
Tất cả lại được anh viết bằng lối dồn dập hình ảnh, ngôn ngữ, bằng liên hoàn các
đoản khúc, nhưng bài thơ dài nên người đọc có mệt trí và khó bắt kịp cấu trúc
chỉnh thể văn bản” ( trang 224).
“ Lại
không ít người cho rằng thơ ông là “tây dịch”, là mịt mù, hũ nút, là làm hỏng
thơ ta” ( trang 236).
“ Những
câu thơ ( của Nguyễn Quang Thiều- VN chú) còn dư thừa, chen chúc hình ảnh, chưa
hiển lộ được cảm xúc và ý tưởng một cách nhuần nhị” ( trang 256).
“ Chất
liệu mang tính cá nhân này khiến cho thơ Nguyễn Quang Thiều trở nên khó hiểu,
khó cảm hơn; lại cũng là một cơ hội đẩy thơ Nguyễn Quang Thiều về phía tượng
trưng, siêu thực” ( trang 301).
Tôi chỉ nêu ra những dẫn chứng có tính chất
tiểu biểu, được viết bới những người có thiện cảm với Nguyễn Quang Thiều, cổ
xúy cho sự đổi mới của anh. Những người ấy còn nói vậy, hỏi làm sao bạn đọc
không có nhiều sự kiên trì, không có nhều
sự cố gắng có thể đọc và thích thơ Nguyễn
Quang Thiều? Đành rằng, nhà thơ có thể không cần nhiều sự tán đồng của người đọc,
có thể kén người đọc; tuy nhiên, ngay cả những người đọc “chuyên nghiệp” cũng
còn phải thừa nhận như thế, vậy thì sự cách tân của Nguyễn Quang Thiều sao có
thể gọi là thành công trọn vẹn? Bênh vực anh, có người đã kêu gọi: “ Ngày nay có vẻ người đọc cần phải thông cảm
với nhà thơ nhiều hơn, kiên nhẫn hơn, chịu khó hơn, “miễn thứ” cho tác giả nhiều
hơn, thì mới mở được cánh cửa của thơ mới” ( trang 308). Nhưng người đọc
không thể cố gắng quá nhiều, bởi vì họ có quá nhiều thứ cần đọc, cần xem. Sự cố
gắng của họ là có chừng mực. Khi sức hấp dẫn không đủ, họ bỏ sách xuống và sẽ
không bao giờ trở lại.
Dù
sao, tôi vẫn nghĩ rằng Nguyễn Quang Thiều có thành công, nhưng sự thất bại cũng
không ít. Mà nguyên nhân chính là anh đã quá đà, đã không tiết chế được mức độ
làm mới và sai lầm khi nóng vội định tước
bỏ hoàn toàn những yếu tố truyền thống làm nên nền thơ dân tộc.
3.
Thật
khó khăn cho Nguyễn Quang Thiều
Tiếp xúc với Nguyễn Quang
Thiều trong đời rất ít, nhưng trong thơ, trong tản văn của anh thì sự tiếp
xúc có thể đủ để gây một ấn tượng mạnh:
Nguyễn Quang Thiều là người có tài, thông minh. Anh đã thử nghiệm một cách đổi
mới thơ gây nhiều tranh cãi trên văn đàn. Hẳn nhiên sau khi làm tuyển tập, sau
khi lắng nghe những ý kiến nhiều chiều về thơ mình, nếu viết tiếp, chắc chắn
Nguyễn Quang Thiều sẽ có những điều chỉnh cần thiết. Tôi không nghĩ như có người
đã khích lệ anh : “Nếu tiếp tục sáng tạo,
thơ anh sẽ phải khó hiểu hơn nữa, dĩ nhiên không phải để đánh đố người đọc”
( trang 307). Tôi nghĩ rằng nếu muốn thành công, Nguyễn Quang Thiều cần phải tỉnh
táo hơn nữa, tiết chế hơn nữa, đồng thời quay trở lại với những yếu tố cơ bản
ăn sâu trong tiềm thức của người Việt khi tiếp nhận thơ ca.
Những
điều này chắc là không cần thiết với một người thông minh, sắc sảo như Nguyễn
Quang Thiều. Tôi vẫn nhớ câu chuyện đùa đùa khi Nguyễn Quang Thiều với tư cách
Phó Chủ tịch hội nhà văn Việt Nam
tiếp đoàn nhà thơ Mĩ đến từ Đại học bang IOWA .
Đại khái anh kể khi chưa làm thơ đổi mới, anh đi gội đầu, nhân viên nhà hàng nhận ra anh là Nguyễn
Quang Thiều, dù anh không xưng tên. Còn khi anh làm thơ cách tân, cũng đi gội đầu,
anh xưng Nguyễn Quang Thiều nhưng cô tiếp viên không biết ông Thiều ấy là ai,
làm gì.
Dù
nói thế nào, một nhà thơ thành công là nhà thơ phải có công chúng. Câu chuyện
đùa ấy cho thấy Nguyễn Quang Thiều không phải là không biết cái giá “ đổi mới”
mà anh phải trả và tiếp theo anh cần phải làm gì.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét