Vũ Nho- Chủ trang
Hạt gạo làng ta
Trần Đăng Khoa
Hạt
gạo làng ta
Có
vị phù sa
Của
sông Kinh Thầy
Có
hương sen thơm
Trong
hồ nước đầy
Có
lời mẹ hát
Ngọt
bùi đắng cay...
Hạt
gạo làng ta
Có
bão tháng Bảy
Có
mưa tháng Ba
Giọt
mồ hôi sa
Những
trưa tháng Sáu
Nước
như ai nấu
Chết
cả cá cờ
Cua
ngoi lên bờ
Mẹ
em xuống cấy…
Hạt
gạo làng ta
Những
năm bom Mĩ
Trút
lên mái nhà
Những
năm cây súng
Theo
người đi xa
Những
năm băng đạn
Vàng
như lúa đồng
Bát
cơm mùa gặt
Thơm
hào giao thông…
Hạt
gạo làng ta
Có
công các bạn
Sớm
nào chống hạn
Vục
mẻ miệng gàu
Trưa
nào bắt sâu
Lúa
cao rát mặt
Chiều
nào gánh phân
Quang
trành quết đất
Hạt
gạo làng ta
Gửi
ra tiền tuyến
Gửi về phương xa
Em vui em hát
Hạt vàng làng ta...
1969
Lời
bình của Vũ Nho
Một phần vì bài thơ được phổ nhạc, trẻ
con nhà quê hát suốt và chính bản thân tôi cũng thích thú nghêu ngao những khi
cao hứng một mình. Phần khác vì đây là bài được chọn đưa vào sách giáo khoa
Tiểu học. Phần khác nữa là trong câu chuyện về ông Chộp có đoạn:
"Lão Chộp dừng lại. Lão nhìn tôi
đăm đăm, vẻ như thăm dò rồi lão dè dặt hỏi:
- Này tôi hỏi khí không phải. Có phải
bác là cái bác Hạt gạo làng ta không?
Tôi ngạc nhiên nhìn lão:
- Vâng, có chuyện gì thế cụ?
- Ồ thế thì hay quá! Tôi định khăn gói
quả mướp tìm gặp bác lâu rồi kia. May quá ! Đúng là ông giời phù hộ bác
ạ!" (Trần Đăng Khoa - Chân dung và đối thoại, tr. 298)
Bấy nhiêu lý do đủ làm cho tôi phải đi
tìm vẻ đẹp của "Hạt gạo làng ta".
Bài thơ mở đầu một cách giản dị nhưng
vô cùng tinh tế ca ngợi cái quí giá của hạt gạo bình thường. Từ thời vua Hùng,
hạt gạo đã được thần mách cho Lang Liêu rằng trong trời đất không có gì quí
bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống con người và ăn không bao giờ chán (Lĩnh
nam chích quái - Truyện bánh chưng). Tục ngữ từng đề cao vai trò của hạt gạo và
địa vị của người làm nông nghiệp "Hết gạo chạy rông, nhất nông nhì
sĩ"... Hạt gạo trong thơ của chú bé Khoa không phải là khái nịêm gạo nói
chung mà là hạt gạo của làng. Cái giỏi của chú bé thần đồng là ở chỗ không lấy
hợp tác, không lấy xã, không lấy huyện làm địa chỉ cho hạt gạo; mà lấy làng,
một tế bào rất cơ bản của xã hội kinh tế nông nghiệp, nơi gắn bó bền chặt của
cộng đồng với bao nhiêu ràng buộc về địa dư, tín ngưỡng, văn hóa, phong tục:
đất làng, đình làng, thành hoàng làng, hội làng, lệ làng... Hạt gạo bé nhỏ ấy
có vị phù sa, có hương sen thơm, có lời mẹ hát... Đó là kết tinh những tinh hoa
của trời đất và con người.
Có một điều kì lạ là bài thơ rất khái
quát và sâu sắc về tư tưởng nhưng lại được diễn đạt bằng cái nhìn đơn giản, hồn
nhiên của trẻ con. "Hạt gạo có..." Như là lối nói thường thấy ở đồng
dao "Củ ấu có sừng, bánh chưng có lá, con cá có vây, ông thầy có
sách...". Chỉ khác là ở đồng dao mỗi sự vật có một thứ đặc trưng, còn hạt
gạo thì có các thứ khác nhau. Có rất nhiều thứ, kể cả gió bão, nắng mưa, nhưng
hạt gạo không có bom đâu nhá. Lại phải
khen cậu bé Khoa. Bởi thế mà ở khổ thơ thứ ba, chữ "có" trốn biệt để
chỉ còn thời gian với bom, với súng, với đạn. Cuối cùng chúng cũng bị mùi thơm
của "bát cơm mùa gặt" đánh bạt. Cứ tựa như là chiến thắng của quả sấu
non trong thơ Xuân Diệu, của khí thế "tiếng hát át tiếng bom" ngày
ấy...
Hạt
gạo làng ta
Có
vị phù sa
Của
sông Kinh Thầy
Có
hương sen thơm
Trong
hồ nước đầy
Có
lời mẹ hát
Ngọt
bùi đắng cay...
Cái khéo của hai chữ "đắng
cay" đứng ở cuối câu vừa nói được trong hạt gạo có phần cay đắng (như
trong ca dao nói dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần), vừa bắc cầu sang những
nỗi vất vả nhọc nhằn để có được hạt gạo trong những năm tháng chiến tranh.
Cũng vẫn là những gì có ở hạt gạo
thôi, nhưng chúng là phần gian nan nhất mà người sản xuất phải chịu đựng: Bão
tháng bẩy gãy cây đổ nhà. Mưa tháng ba liền với giá rét căm căm khiến người già
chết cóng. Tuy nhiên cái rét, cái mưa, con người còn phòng được, chống
được ít nhiều. Cái nắng, cái nóng mới là
nỗi cơ cực nhất của người nông dân. Có phải vì thế chăng mà bài ca dao xưa cũng
đặc tả cái nắng, cái nóng "... buổi ban trưa. Mồ hôi thánh thót như mưa
ruộng cày". Trần Đăng Khoa không nhắc đến trận "mưa mồ hôi" tuy
là "mưa giả" nhưng cũng có nước để dịu đi chút nóng. Chú bé nói đến
mồ hôi sa trưa tháng sáu, nói đến cái nóng trên giời (nắng trưa) cái nóng dưới
ruộng (nước như ai nấu). Nóng đến nỗi cá không sống nổi, cua phải bỏ lên bờ...
Còn mẹ em, người phụ nữ nông thôn thì lội xuống thửa ruộng như chảo nước đang
đun nóng bỏng để mà cấy lúa, cấy mầm sống, mầm hi vọng có hạt gạo mai này. Có
khác nào đi vào chỗ chết để làm ra sự sống.
Đặc sắc bài thơ về hạt gạo của Trần
Đăng Khoa là nói đủ cả bão, mưa, gió, nắng. Mưa ra mưa, mưa tháng ba, và cả mưa
trong bão tháng bảy "áo mẹ mưa bạc màu. Đầu mẹ nắng cháy tóc". Lại
nhớ đến hình ảnh người cha đi cày về "đội sấm, đội chớp, đội cả trời
mưa"...
Nếu chỉ vật lộn với thời tiết, với mưa
gió để làm ra hạt gạo thì công lao của người nông dân cũng đã to lớn vô cùng.
Nhưng hạt gạo ấy còn được làm ra dưới đạn bom. Bom trút lên mái nhà, trút vào
nơi sống, nơi nghỉ ngơi để lấy lại sức lực sau những bão những nắng, những nóng
những rét, những mưa... Hạt gạo ấy còn được làm ra trong điều kiện trai tráng
khỏe mạnh đều theo cây súng đi xa. Và cả hậu phương giờ cũng thành ra chiến
trường, bom Mĩ trút, hố chiến đấu, hào giao thông chằng chịt...
Những năm tháng chiến tranh gian khổ
nhưng đầy hào hùng. Chỗ nào cũng nói đến lập công, ghi công. Trong bảng vàng
chiến công ấy có cả công những em bé "Đưa cơm cho mẹ đi cày" (tên một
bài hát nổi tiếng của Hàn Ngọc Bích). Phải ghi công vì các em không chỉ làm kế
hoạch nhỏ, nghìn việc tốt mà các em còn tham gia lao động, làm những việc quá
sức đối với lứa tuổi. Tát nước chống hạn thì "vục mẻ miệng gàu", gánh
phân thì "quang trành quết đất", bắt sâu thì "lúa cao rát
mặt"... Sáng, trưa, chiều... không đi học là các em đi làm...
Bài thơ chỉ nhắc đến mẹ và các bạn
thiếu nhi vì những năm ấy đảm đang đồng ruộng chủ yếu là phụ nữ và trẻ con. Thơ
viết như không nhưng sức khái quát lại rất cao là thế.
Khổ kết thúc bài thơ là một khổ thơ
đặc sắc. Hạt gạo ấy xứng đáng là hạt vàng, xứng đáng để nhà thơ nhỏ tuổi ca
hát.
Em vui em hát
Hạt
vàng làng ta
Hạt
gạo nhỏ bé mà có đủ vị, hương, âm thanh lời hát, có không gian, có thời gian,
có phong trào thiếu nhi, có lịch sử đánh Mĩ. Bài thơ nho nhỏ mà nói bao điều
lớn lao...
Trò
chuyện với Trần Đăng Khoa, tôi mới hiểu vì sao anh tặng bài thơ này cho Xuân
Diệu. Chính ông chứ không ai khác đã "mắng" chú bé Khoa về đoạn kết
bài thơ. Trần Đăng Khoa kể:
"Ban
đầu em viết đoạn kết:
Hạt gạo làng ta
Gửi ra tiền tuyến
Gửi về muôn phương
Làm nên chiến trường
Làm nên niềm vui
Các cô các bác
Đừng để gạo rơi
Khi
em đưa cho Xuân Diệu, ông trợn mắt bảo: "Các cô các bác không phải là trẻ
con đâu nhé, không đợi cháu dạy khôn như thế. Cháu còn bé phải tránh cái lối
dạy dỗ. Giáo huấn - đấy là cái nhược điểm, cái bệnh chung của nền thơ ta. Cháu
phải tránh xa".
Vì
thế em đã viết lại đoạn kết như hiện nay".
Mới
hay, dù đã là thần đồng như Trần Đăng Khoa, nếu không có ông thầy tài ba, một
Đại sư Xuân Diệu thì cũng khó mà đi xa. Nhờ "mắng mỏ" nghiêm khắc của
Xuân Diệu mà "Hạt gạo làng ta" trở nên "hạt vàng" trọn vẹn.
Hà Nội tháng 11, Nha Trang 12/1998
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét