Nhà văn nhà giáo Hoàng Dân
Kết
nghĩa với người dưới mộ
Cảnh
Giang
Thương tặng liệt sĩ Đặng Thị Chốc,
Bí thư chi
bộ, Đại đội trưởng TNXP đoàn 283 Hải Hưng
Em bây giờ: “Là
em gái của anh!”
Dẫu muộn màng
nhưng phần đời còn lại
Một chút sẻ
chia những gì mãi mãi
Gửi ân tình đỡ
lạnh chốn âm cung…
Mới biết em cô
gái Hải Hưng
Tạm biệt quê
hương lên đường cứu nước
Em nằm lại với
quê Anh hơn 30 năm trước!
Cùng trăm ngôi
mộ vô danh
Ôi! Bạo tàn
ngọn lửa chiến tranh
Thiêu cháy tuổi
xuân một thời con gái
Em hẹn Mẹ:
“Không ngày trở lại
Ngày giỗ Con là
ngày Con ra đi…!”
Em hoá thân vào
đất nước khắc ghi
Em hoá thân cho
mùa xuân mãi mãi
Cho quê Anh
ngọt ngào hoa trái
Rì rào sông
Gianh ru em ngủ giấc lành…
Không còn người
thân! “Em đã có Anh!”
Có Tổ quốc và
trời xanh trên nấm mộ
“Anh thay Mẹ lo
Em ngày giỗ!
Có hương, hoa
và nỗi nhớ vô cùng…!”
Và từ nay giữa
nghĩa trang chung
Trong tình yêu
cho muôn ngàn ngôi mộ
Ấm lòng hơn,
“Anh trai mình đến đó!”
Nặng nghĩa tình
cùng sông núi ghi ơn
5.9.2009
Lời
bình của Hoàng Dân
Ai từng đến
những nghĩa trang liệt sĩ mênh mông trên mọi miền đất nước, từng đứng lặng rưng
rưng trước những dãy mộ trùng điệp với những tấm bia thật “vô tình”: LIỆT SĨ VÔ
DANH (hoặc LIỆT SĨ CHƯA RÕ TÊN) thì có thể sẽ đồng cảm ngay với bài thơ này.
Ngay một đứa
trẻ sơ sinh đã phải có họ tên để làm giấy chứng sinh và sau là đó là giấy khai
sinh, một tờ giấy sẽ theo suốt cuộc đời một con người cho tới khi nắm mắt xuôi
tay. Và đó là một tờ giấy cực kì quan trọng, bởi thiếu nó, con người sẽ trở nên
vô thừa nhận như thân phận một… con vật hoang! Huống chi, khi trưởng thành, lên
đường cứu nước, hi sinh và… mất luôn cả họ tên để chỉ còn hai chữ lạnh lẽo: VÔ
DANH! Sao lại vô danh? Từ cái tên khai sinh đến hai chữ “vô danh” quả là một
tấn bi kịch! Bi kịch do chiến tranh gây ra! Chỉ ở khía cạnh này thôi, chiến
tranh đã quá tàn ác rồi! Chiến tranh có thể cướp đi sinh mạng của một con người
đang độ thanh xuân phơi phới, chuyện ấy xem ra cũng bình thường. Nhưng chiến
tranh cướp đi cả cái tên cúng cơm của một con người thì không còn ngôn từ nào
có thể diễn tả nổi nỗi đau của những người thân.
Người con gái
liệt sĩ trong bài thơ này may mắn vẫn còn tên trên bia mộ, nhưng có lẽ không
còn người thân nào đến hương khói thường xuyên, cho nên tác giả đã tự nguyện
làm một cuộc “kết nghĩa”:
Em bây giờ: “Là
em gái của anh!”
Dẫu muộn màng
nhưng phần đời còn lại
Một chút sẻ
chia những gì mãi mãi
Gửi ân tình đỡ
lạnh chốn âm cung…
Cuộc kết nghĩa
lạ nhưng chân thành và cảm động. Lạ vì đây là cuộc kết nghĩa một chiều của
người cõi dương với người cõi âm. Lạ vì nó quá muộn màng. Cảm động vì người cõi
dương chỉ mong cuộc kết nghĩa này giúp cho người âm “đỡ lạnh chốn âm cung”. Nói
“đỡ lạnh” tức là từng bị lạnh rồi, thậm chí là lạnh tới… hơn 30 năm, cũng tức
là người đời đã quên em quá lâu rồi; nhưng em ơi, vẫn có người chưa quên hẳn,
người đó là anh.
Sau cuộc kết
nghĩa, người dương đứng lặng hồi lâu để đọc kĩ hơn những dòng chữ ghi trên bia
mộ, ngắm kĩ hơn những dãy mộ vô danh và kể những gì vừa chợt biết về người âm:
Mới biết em cô
gái Hải Hưng
Tạm biệt quê
hương lên đường cứu nước
Em nằm lại với
quê Anh hơn 30 năm trước!
Cùng trăm ngôi
mộ vô danh
Ôi! Bạo tàn
ngọn lửa chiến tranh
Thiêu cháy tuổi
xuân một thời con gái
Em hẹn Mẹ:
“Không ngày trở lại
Ngày giỗ Con là
ngày Con ra đi…!”
Lời hẹn “Ngày
giỗ Con là ngày Con ra đi…!” vừa mang cái khẩu khí của thời đại “Xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu), vừa thấm đẫm chất bi
tráng của một lời thề: “Ra đi giữ trọn lời thề/Đánh tan giặc Mĩ mới về quê
hương”. Nhưng giặc tan rồi mà sao em vẫn “nằm lại với quê Anh” lâu tới hơn 30
năm? Chắc mẹ em đã mất và họ hàng thân thích cũng chẳng còn ai!
Cuộc chiến
tranh đã đi qua, nhưng người hi sinh thì vẫn nằm đây, trơ trọi hương tàn khói
lạnh? Không thể! Với người đời thì anh không biết, nhưng với anh, với quê hương
anh thì em mãi mãi là ân nhân:
Em hoá thân vào
đất nước khắc ghi
Em hoá thân cho
mùa xuân mãi mãi
Cho quê Anh
ngọt ngào hoa trái
Rì rào sông
Gianh ru em ngủ giấc lành…
Với lòng biết
ơn chân thành, người dương như muốn ghé sát ngôi mộ thì thầm:
Không còn người
thân! “Em đã có Anh!”
Có Tổ quốc và
trời xanh trên nấm mộ
“Anh thay Mẹ lo
Em ngày giỗ!
Có hương, hoa
và nỗi nhớ vô cùng…!”
Em ơi, từ nay
ngày giỗ của em sẽ có hương hoa, có hơi ấm của tình nghĩa thuỷ chung uống nước
nhớ nguồn… Em có nghe rõ lời anh nói không, hỡi em?
Kì diệu thay, trong tiếng gió hú bất tận
ở nghĩa trang, hình như người dương cảm nhận văng vẳng lời thì thào của người
âm “Anh trai mình đến đó!”:
Và từ nay giữa
nghĩa trang chung
Trong tình yêu
cho muôn ngàn ngôi mộ
Ấm lòng hơn,
“Anh trai mình đến đó!”
Nặng nghĩa tình
cùng sông núi ghi ơn
Bài thơ kết
thúc có hậu, cái hậu của cõi tâm linh. Người Việt ta có câu tục ngữ “Sống vì mồ
vì mả, không ai sống bằng cả nồi cơm”. Thoả mãn cái dạ dày là việc tối quan
trọng, phủ nhận điều đó là dối trá; nhưng nếu chỉ tìm mọi cách để thoả mãn cái
dạ dày mà không biết “sợ” đạo lí thì con người sẽ tàn ác và bạc bẽo hơn cả con
vật. Trong bài thơ này, người dương, sau hơn 30 năm bươn chải mưu sinh đã có
một điểm dừng để suy ngẫm và chợt ngộ ra một nỗi sợ… Và chính nỗi sợ đã làm nên
cái kết có sức thuyết phục cho bài thơ.
Thạch Bàn, thứ bảy, 22.3.2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét