Vũ Nho - Chủ trang
ỨC TRAI VỚI MÙA XUÂN Ở Côn Sơn
( Bình bài thơ Trại đầu xuân
độ và Mộ xuân tức sự)
Vũ Nho
Theo cụ Đào Duy Anh, hai bài thơ
“Trại đầu xuân độ” ( Bến đò xuân đầu trại) và “ Mộ xuân tức sự” ( Cuối xuân tức
cảnh) trong tổng số 99 bài thơ chữ hán của “Ức Trai thi tập”, Nguyễn Trãi viết
khi ông lui về ở ẩn tại Côn Sơn. Lúc này, nhà đại trí thức Nguyễn Trãi đã không
được tin dùng, đã bị nghi kị, gièm pha và lạnh nhạt. Tuy bị buộc phải về ẩn dật
nơi rừng suối, lòng ngổn ngang bao nỗi niềm tâm sự, nhưng mặt khác ngay khi còn
làm quan, Nguyễn Trãi lại ước ao:
Như
kim chỉ ái sơn trung trú
Kết
ốc hoa biên độc cựu thư
(
như nay ta chỉ thích ở trong núi
Làm
nhà bên hoa mà đọc sách xưa)
Ngẫu
thành
Có
phải thế chăng mà mùa xuân đến trong thơ Nguyễn Trãi vẫn mơ mộng, trong sáng và
đầy sức sống. Dù chỉ có hai bài với 8 câu thơ xuân, nhưng nét xuân trong thơ
Nguyễn Trãi vẫn in đậm dấu ấn tài hoa của một thi hào lớn, một cốt cách lớn
sáng trong vằng vặc tựa sao Khuê.
TRẠI
ĐẦU XUÂN ĐỘ
Độ
đầu xuân thảo lục như yên
Xuân
vũ thiêm lai thủy phách thiên
Dã
kính hoang lương hành khách thiểu
Cô
chu trấn nhật các sa miên
BẾN
ĐÒ XUÂN ĐẦU TRẠI
Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có
mưa xuân nước vỗ trời
Quạnh
quẽ đường đồng thưa vắng khách
Con đò
gối bãi suốt ngày ngơi
Khương
Hữu Dụng dịch
Xiết bao là thú vị khi ta được
chiêm ngưỡng cảnh xuân quê hương đất Việt trên dưới năm trăm năm về trước. Một
cái trại nhỏ, một bến đò ngang, dòng sông trôi mơ màng, nước và trời hòa lẫn.
Tất cả cảnh vật được nhìn qua làn mưa mỏng của mùa xuân nên có màu sắc mơ hồ
huyền ảo thật lạ lùng. Đầu tiên là sắc cỏ xuân:
Cỏ
xanh như khói…
Với
Nguyễn Trãi, cỏ cũng đã từng “rờn rờn xanh” trong câu thơ “ vọng trung ngạn
thảo thê thê lục” ( Vân đồn). Nhưng đây là trường hợp duy nhất cỏ xanh như
khói. Trong thơ Nguyễn Du, khi thì “ Cỏ non xanh tận chân trời”, khi thì “ Một
vùng cỏ mọc xanh rì” cũng chưa thấy cái sắc xanh như khói ấy. Mà chả riêng gì
sắc cỏ, bầu trời và dòng sông cũng có sự tương hợp lạ lùng. Trời như gần lại,
thấp xuống, còn dòng sông thì nước đầy lên, tưởng có thể vỗ sóng vào bầu trời
như lụa. Cảnh sắc thật êm đềm, tĩnh lặng, mơ màng. Tuy vậy, nhìn kĩ vẫn thấy là
cảnh động. Một sự chuyển động nhẹ nhàng, kín đáo : ngọn cỏ vờn, bụi mưa bay,
làn sóng vỗ. Đơn sơ mà đầy sức sống mùa xuân.
Bài
thơ như một bức tranh. Bầu trời, mặt nước, sắc cỏ, con đường nhỏ chạy giữa cánh
đồng như là nền tôn thêm vẻ đẹp cho con thuyền đang nằm gối bãi:
Cô
chu trấn nhật các sa miên
Thuyền côi gối bãi ngủ thâu ngày
Thật
khác xa với sự nhộn nhịp của bến đò nơi thành thị làm ăn xô bồ “ eo xèo mặt
nước buổi đò đông”, cũng không có cái sống động phơi phới của nhịp chèo đang
rộn ràng khua nước. Phải yên tĩnh lắm, vắng vẻ lắm nên con thuyền mới thành ra
thuyền côi ( cô chu) đơn chiếc bên sông. Và cũng yên tĩnh lắm nên con thuyền
mới có thể mơ màng chìm trong giấc ngủ. Cảnh sắc ấy gợi nhớ chuyện Nguyễn Trãi
lánh cõi trần tục, tránh chốn bụi hồng nơi đô hội phồn hoa. Cảnh trần đấy,
nhưng đã thấy thấp thoáng cõi tiên. Thành ra con thuyền giờ cũng mang một vẻ
riêng. Con thuyền của Nguyễn Trãi trong thơ đã từng gối bãi, nhưng không cô
đơn, chan hòa trong ánh trăng và giữa cảnh non nước tươi đẹp:
Nước biếc non xanh thuyền gối bãi
Đêm
thanh nguyệt bạc khách lên lầu
Bảo
kính cảnh giới 26
Đó còn là con thuyền từng băng
băng lướt trên sông Bạch Đằng đầy không khí lịch sử hào hùng:
Biển lùa gió bấc thổi băng băng
Nhẹ
kéo buồm thơ lướt Bạch Đằng
Bạch
Đằng hải khẩu
Nhưng có lẽ ngoài con thuyền thực
đậu nơi bến vắng, con thuyền còn kí thác một tâm sự cô đơn, muốn nguôi quên,
muốn chìm vào nơi hẻo lánh để di dưỡng tinh thần không gợn chút bụi trần của
nhà thơ. Nguyễn Trãi vốn tinh tế, hào hoa. Vả chăng ông cũng không muốn đem phô
bày tâm sự “ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông” của mình; không muốn mượn cảnh
xuân mà trút niềm canh cánh, làm hỏng bức tranh xuân. Thành ra, chuyện tâm sự
là có, nhưng nó thấp thoáng, nó quyện vào cảnh xuân hết sức yên tĩnh, mơ mộng
của một bến đò lồng lộng vẻ đẹp vừa thực vừa mơ.
Bây
giờ chúng ta hãy rời bến đò để ghé thăm Ức Trai nơi phòng sách vào lúc cuối
xuân.
MỘ
XUÂN TỨC SỰ
Nhàn
trung tận nhật bế thư trai
Môn
ngoại toàn vô tục khách lai
Đỗ
vũ thanh trung xuân hướng lão
Nhất
đình sơ vũ luyện hoa khai
CUỐI
XUÂN TỨC CẢNH
Trọn ngày thong thả khép phòng văn
Khách
tục bên ngoài chẳng bén chân
Khắc
khoải quyên kêu xuân đã muộn
Hoa
xoan mưa nhẹ nở đầy sân
Đào
Duy Anh dịch
Không gian trong bài thơ này thu
hẹp lại. Trong bài thơ bến đò, nó mở ra với dòng sông, với bầu trời, với con
đường, với cánh đồng. Còn ở đây nó thu vào trong phòng sách mà Nguyễn Trãi đóng cửa suốt ngày. Nếu ở bài thơ trước “ hành khách thiểu” thì ở đây “ toàn vô tục
khách lai” – một đằng có người, nhưng ít; còn một đằng là không hề có một ai.
Nếu trong bài thơ “ Mạn thuật 5”, Nguyễn Trãi còn ngỏ cửa ( Thú thanh phong, lều
một gian. Ngỏ cửa nho, chờ khách đến), thì ở đây ông đóng cửa suốt ngày. Có nhà
nghiên cứu quá nệ vào chữ “tục” ( tục khách) và căn cứ vào sự cao khiết của
Nguyễn Trãi mà giảng như đinh đóng cột rằng tục khách là “kẻ tầm thường, thiếu
nhân cách, ham danh lợi, không thanh cao”. Không hẳn là như thế. Tục khách ở
đây là khách ở cõi tục, khách của cõi trần, của đời thường mà Nguyễn Trãi đã
rời bỏ, đã lánh xa. Không có khách tục, vậy là chốn phòng văn khác nào tiên
cảnh, tách biệt với những ồn ào, náo nhiệt, bụi bặm của trần gian. Nguyễn Trãi
như đang ẩn giữa rừng nho biển thánh, trọn ngày đắm mình trong sắc hương tư
tưởng, đạo đức của tiền nhân giữa những áng cảo thơm. Thật là một cách ở ẩn độc
đáo của người trí thức. Nhưng không chỉ có thế. Đóng cửa đấy, nhưng mùa xuân
vẫn tràn qua cửa khép bằng âm thanh tiếng cuốc, bằng mùi hương của hoa xoan.
Thành ra đóng cửa mà vẫn giao cảm. Đóng cửa phía cõi tục để mở hồn về phía cõi
tâm và cõi thần tiên.
Khắc
khoải quyên kêu xuân đã muộn
Hoa
xoan mưa nhẹ nở đầy sân
Thoáng qua, người ta dễ nghĩ đến
tứ thơ của Mãn Giác thiền sư:
Chớ
bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm
qua sân trước một nhành mai
Nhưng hai thi sĩ lớn của hai thời
đại đâu có chuyện lặp lại nhau? Trong thơ Nguyễn Trãi, mùa xuân đang già ( xuân
hướng lão) trong tiếng cuốc kêu khắc khoải, mùa xuân đang chuyển với mưa bụi,
với hoa xoan. Và chớ nên tách bạch hai câu thơ này với hai câu thơ trước vốn
gắn bó hài hòa, gợi một phòng sách đầy hương tư tưởng giữa một sân đầy mưa,
dưới một vòm lộc xoan đã thành xum xuê,
và sau cùng là dưới một vòm hoa đã nở, đang nở dưới mưa nhuần. Ở đây có nét
xuân nghe thấy ( tiếng cuốc), có nét xuân nhìn thấy ( mưa bụi, hoa xoan) nhưng
xin đừng quên nét xuân cảm thấy ( hương xoan). Nét xuân cảm thấy mới là cơ bản.
Phải chăng với lí do này mà Nguyễn Trãi đã phải cẩn thận ghi chú dưới bài thơ :
“ Sách Nhĩ nhã nói cây xoan tháng ba nở hoa thơm phức cả sân”. Vậy là Nguyễn
Trãi cảm xuân từ tiếng cuốc và từ mùi hương. Nhiều người giảng bài thơ này
thường quên một sân hương xoan thơm phức của Ức Trai. Từ tiếng cuốc kêu vọng
vào, từ mùi hương lọt vào, Nguyễn Trãi cảm nhận hoa xoan đang nở, cảm nhận cả
mưa xuân lất phất ngoài phòng trai, cảm nhận cả cái yên tĩnh tuyệt đối, vắng
lặng tuyệt đối “Môn ngoại toàn vô tục khách lai”.
Bài
thơ có nhan đề “ mộ xuân tức sự”. Phải chăng nhà thơ chỉ ghi lại toàn sự việc?
lẽ nào đằng sau chuyện “xuân hướng lão” mà hoa xoan vẫn bừng nở đầy sân kia
không ngụ một chút lòng Ức Trai? Lẽ nào đó không phải là một nỗi niềm trước
cảnh thiên nhiên : lòng ưu dân ái quốc mãi mãi tràn đầy, mãi mãi như sức xuân
bất chấp tuổi tác, bất chấp thời gian?
Cái
hay của bài thơ là ở chỗ tâm sự của nhà thơ hài hòa trong cảnh xuân, đằm sâu
trong sắc xuân, chứ không mượn cảnh xuân mà bộc lộ. Niềm tâm sự ấy càng làm cho
bức tranh xuân thêm lộng lẫy thêm vì nó mang hồn người viết.
Hà Nội, tháng XII, 1990
Nỗi niềm tạm lắng vào trong / Ung dung xuân sắc trải lòng thi nhân...
Trả lờiXóaCám ơn Nguyễn Xuân Lai đã ghé trang. Hôm nay sau khi nghe TS Trần Trọng Dương nói về ngôn ngữ thơ Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập, thế kỉ XV, về nhà lục và đưa lên bài viết về thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi. Cũng là một cách tưởng nhớ tiền nhân,
XóaTuổi tên tinh biển nay còn lại
Trả lờiXóaBia đá ngàn năm cỏ mọc tràn
Nguyễn Trãi
Bài bình hay quá .Lời bình trau chuốt nhẹ nhàng nhưng cũng cuộn trào nêu bật được nhân cách cua đại thi hào.Đẹp như dáng núi Mã Mây trong một sáng xuân
Bình thơ người khác mà như bình thơ của mình vậy, nhập hồn vào ý thơ Bác đã trài hết lòng mình
Đây cũng như là một lời tri ân của Bác gửi tới đại thi hào Nguyễn Trãi cảm ơn bác Nho
P/s Ngạc nhiên hơn nữa bài binh này được viêt cach đây 1 5 năm tôi dọc cứ cảm thấy như vùa mới đươc viết hôm qua
Cám ơn bạn Alaykum Salam đã ghé trang và chia sẻ!
XóaTôi viết bình thơ đã lâu. Cũng có bài được bạn bè, đồng nghiệp khích lệ. Vả lại, nghề dạy học, muốn không dạy suông và thuyết phục học trò thì phải có thêm nghiên cứu, phê bình! Có được bài viết được vài người trong giới khen là khó thay mà cũng vui thay!