Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2015

NGƯỜI KHÔNG CHỈ NỢ TRƯỜNG SƠN

                                                                              Nhà thơ Phạm Văn Đoan

NGƯỜI KHÔNG CHỈ NỢ TRƯỜNG SƠN
          Tập thơ Nợ Trường Sơn của Phạm Văn Đoan, nhà xuất bản Hội nhà văn, 2014
                                             Vũ Nho

Là người lính của đơn vị 559, một thời  máu lửa gắn bó với Trường Sơn hùng vĩ, Phạm Văn Đoan cảm thấy mình mắc nợ với đồng đội, bạn bè, mắc nợ với Trường Sơn. Ta canh cánh món nợ đời lớn vậy/ Càng nghĩ càng xa, càng lắc càng đầy.( Nợ Trường Sơn).  Hòa bình, người lính giải ngũ đi làm dầu khí, tuy vậy “ Thời gian cứ xuôi và lòng người chảy ngược” ( Cỏ gừng). Người cựu binh ấy cứ ngược thời gian, ngược dòng đời để nhớ về quê hương, về chiến trường, và cũng không quên những khoảnh khắc hiện tại  với ngành dầu khí, trên giàn khoan “ gió và nước… hùa nhau gào thét”/ “ Tiếng máy quay chóng mặt nhức đầu”/ “ Đêm lại đêm cứ tít mù chong chóng” (Đêm giàn khoan). Người thơ mắc những ba món nợ lớn, với Trường Sơn, với quê lúa Thái Bình và với ngành dầu khí. Và có thể kể thêm một món nợ  không hề nho nhỏ với Em trên đường đời hữu ý hay tình cờ bắt gặp.
  Tập thơ có nhiều bài nhắc đến một thời không thể nào quên của nhà thơ và đồng đội, nhắc đến chiến trường gian khổ ác liệt Trường Sơn:
          …nơi mười năm không biết mặt đồng tiền
          Không phấn không son không lời dịu ngọt
          Tư lệnh với anh em chuyền tay nhau điếu thuốc
          Sống vô tư và chết rất nhẹ nhàng
                   Vẫn cùng một tiếng tắc kè
Các bài thơ Bến quê, Nợ Trường Sơn,Vẫn cùng một tiếng tắc kè,  Lời tâm sự của tấm huân chương, Nghe tin chiến sự, Nhớ bạn, Tuổi quê, Nghĩa trang chiều cuối năm, Gặp lại người cũ làm dầu khí,  Trường Sơn, Đồng ca, Chùa cũ người xưa, Di họa chiến tranh, Mẹ ơi, Cây da lách hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp nói về cuộc chiến đấu cam go, đầy mất mát hi sinh nhưng cũng rất đỗi  hào hùng. Viết nhiều về chiến tranh như vậy là vì “ Có một thời không thể dễ dàng quên” ( Lặng lẽ).

Trong thơ của Phạm Văn Đoan, người đọc như được cùng tác giả trải qua những năm tháng  chiến tranh của đoàn xe vận tải. Những câu thơ bổ sung thêm vào  hình ảnh chiến sĩ lái xe trong “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” nổi tiếng của Phạm Tiến Duật:
          …khói bom trở lại
          Pháo sáng bủa vây trắng trời
          Đoàn xe không đèn không kính
          Đợi phà trong tiếng bom rơi
                            Cây da lách
                  
          Bom cứ rơi và xe cứ chạy
          Xe cháy mấy lần người chưa chịu hi sinh
          Thấm lời hẹn hò dăng dọc Trường Sơn
                             Chùa cũ người xưa
Và  chúng ta đau nỗi đau của “di họa chiến tranh”, chất độc màu da cam sẽ làm cho mất khả năng sinh nở hoặc sinh những đứa con dị tật suốt đời :
          Giải phóng miền Nam anh trở lại quê nhà
          Đỏ rực huân chương
          Không mảnh giấy chứng thương
          Cái chết từ mùi hắc dị thường
          Chất độc màu da cam
          Bắt đầu âm ỉ cháy.
                            Di họa chiến tranh
Chính vì lăn lộn với chiến trường, cho nên kỉ niệm Trương Sơn không phai nhòa “ Trường Sơn/ Trường Sơn/ Còn thăm thẳm lòng ta” ( Trường Sơn). Một câu thơ của đồng đội thời bom đạn, thời “Trường Sơn lửa đỏ rực trời” bao năm vẫn rừng rực cháy:
          Câu thơ ấy đến bây giờ vẫn cháy
          Rừng rực thôi miên suốt dọc đời người
                             Bây giờ vẫn cháy
Cả cách hành xử dứt khoát này cũng là cách hành xử dứt khoát, quả quyết của người lính Trường Sơn :
          Nếu còn vấn vương là dở
          Lòng ta nhất định dửng dưng […]
          Thế là chiều nay gọn lại
          Trực chỉ Vũng Tàu thẳng bay
                                Trẩy
Không có bản lĩnh Trường Sơn ấy, không thể viết được bài thơ đầy tinh thần hòa giải, hòa hợp dân tộc :
          Hú vía một thời
          Giờ ngoảnh mặt lại
          Mắt còn hoa lên chớp đạn cầu vồng
          Anh là giặc trog tôi
          Tôi là giặc trong anh
          Giặc ở trong nhau hai thằng dân cùng một nước
          […]
          Rượu đã tràn rồi còn chờ gì nữa
          Uống đi kìa
          Ông giặc của tôi ơi
                             Tôi và anh
Như đã nói, ngoài món nợ lớn Trường Sơn, Phạm Văn Đoan còn nợ quê lúa Thái Bình. Bao năm trận mạc hay bươn chải  nơi xa xứ  (…chân cứng đá mềm/Long đong đã thấm bon chen đã thừa), tấm lòng của tác giả vẫn đau đáu nhớ về quê.  Quê như một hằng số bất biến trong trái tim nhiều nhung nhớ:
          Còn nguyên đấy một con đò
          Còn nguyên đấy một bến bờ đợi mong
          Còn nguyên đấy một dòng sông
          Còn nguyên đấy một nỗi lòng bâng quơ
                             Bến xưa
Kí ức tuổi thơ, người mẹ quê nghèo, tin quê hết hạn  cháy đồng đến  lũ lụt trắng băng làm người thơ “nát lòng”…tất cả đều được giãi bày mong …trả nợ. Thậm chí Phạm Văn Đoan yêu quê đến mức “ bảo thủ” khi ao ước và mong muốn:
          Làng ta ơi, xin hãy cứ là làng
          Hãy cứ nhà tranh bếp rạ rơm vàng
          Hãy cứ chợ chiều đẩy đưa mặc cả
                               Làng ta
Người đọc không thể không mỉm cười. Và nhớ lại chuyện thi sĩ Nguyễn Bính “ van em em hãy giữ nguyên quê mùa” nhưng đâu có được!
          Tất nhiên, dù nặng lòng, dù luôn luôn hoài niệm về  quê làng, về Trường Sơn, song người lính ấy không chỉ sống bằng hoài niệm. Anh là người hành động, cho nên món nợ với ngành dầu khí cũng là một khoản mà nhà thơ phải…trang trải. Có thể đọc trong tập này các bài : Thợ lặn,  Nhớ bạn,  Giao thừa trên giàn khoan, Gặp lại người cũ làm ngành dầu khí,  Làng Nga,  Mẹ đi giàn, Đêm giàn khoan,… Những bài thơ về chủ đề này nổi trội so với những người đã viết về dầu khí, góp phần cho bạn đọc thấy một ngành nghề vất vả, nhiều hi sinh thầm lặng “ giọt dầu đen xương trắng máu hồng” chứ không phải toàn ánh hào quang.
          Cuối cùng là món nợ với bâng quơ, với tóc dài, tóc tém mà người thơ đã gặp tình cờ hay hữu ý. Về mảng thơ này, Phạm Văn Đoan viết khá tung tẩy và có giọng điệu riêng. Nhiều khi tác giả “ Quên màu thời gian trên tóc/ Hồn nhiên mãi tuổi hai mươi” ( Hè về). Những mối tình đơn phương, những “ dự cảm vừa nhen”, những “ tình cờ dễ lạ dễ thân”, những “bâng quơ” một lần Đi đò, một lần Trú mưa, hay một Chiều hoa Đà Lạt… những Nữ hoàng mất ngôi và Tướng quân hết thời cưỡi trâu…Những điều đó làm cho tập thơ  đa thanh. Người ta hay nhắc đến bài thơ Thèm lén, một thú nhận chân thành của người thơ :
          Trời xuân phơi phới hong tơ
          Cô hàng xóm quẩy đôi vò rượu xuân
          Vợ vừa xa, rượu đang gần
          Ước gì bí tỉ một lần rồi thôi
Dẫu sao thì đó cũng chỉ là một dạng “lén”,  một dạng ước ao của thi sĩ nhiều mơ mộng, một người “ uống tràn vẫn tỉnh” trong buổi phơi phới mời gọi của mùa Xuân.
          Có thể thấy  ngoài giọng nghiêm trang, nhiều suy ngẫm của người từng trải là  giọng tha thiết có chút ngậm ngùi khi nói về quê hương, tung tấy, trẻ trung khi nói về những mối tình; nghình nghịch, tếu táo khi hồi ức một thời “ Dở khờ khạo dở ranh ma/ Dở yêu dở ghét dở bà dở ông”;  giọng hài hài khi Ghi ở làng Nga, khi Tiếp bạn;  giọng ngụ ngôn trong Viết cho con, Xổ số, Bài thơ chưa có tên; giọng châm biếm trong Vô đề… Tất cả các giọng điệu đó thống nhất trong một tâm hồn thơ  chân mộc, bình dị, chắc khỏe, đủ sức găm vào kí ức người đọc./.

                                                                  Hà Nội, 17/2/2015

In báo Văn Nghệ, Hội nhà Văn Việt Nam số 17+18 năm 2015

         
         
                              


2 nhận xét: