Nhà thơ Phạm Văn Đoan
NGƯỜI
KHÔNG CHỈ NỢ TRƯỜNG SƠN
Tập thơ Nợ Trường Sơn của Phạm
Văn Đoan, nhà xuất bản Hội nhà văn, 2014
Vũ
Nho
Là
người lính của đơn vị 559, một thời máu
lửa gắn bó với Trường Sơn hùng vĩ, Phạm Văn Đoan cảm thấy mình mắc nợ với đồng
đội, bạn bè, mắc nợ với Trường Sơn. Ta
canh cánh món nợ đời lớn vậy/ Càng nghĩ càng xa, càng lắc càng đầy.( Nợ
Trường Sơn). Hòa bình, người lính giải
ngũ đi làm dầu khí, tuy vậy “ Thời gian
cứ xuôi và lòng người chảy ngược” ( Cỏ gừng). Người cựu binh ấy cứ ngược
thời gian, ngược dòng đời để nhớ về quê hương, về chiến trường, và cũng không
quên những khoảnh khắc hiện tại với
ngành dầu khí, trên giàn khoan “ gió và
nước… hùa nhau gào thét”/ “ Tiếng máy quay chóng mặt nhức đầu”/ “ Đêm lại đêm cứ tít mù chong chóng”
(Đêm giàn khoan). Người thơ mắc những ba món nợ lớn, với Trường Sơn, với quê
lúa Thái Bình và với ngành dầu khí. Và có thể kể thêm một món nợ không hề nho nhỏ với Em trên đường đời hữu ý
hay tình cờ bắt gặp.
Tập thơ có nhiều
bài nhắc đến một thời không thể nào quên của nhà thơ và đồng đội, nhắc đến
chiến trường gian khổ ác liệt Trường Sơn:
…nơi
mười năm không biết mặt đồng tiền
Không
phấn không son không lời dịu ngọt
Tư
lệnh với anh em chuyền tay nhau điếu thuốc
Sống
vô tư và chết rất nhẹ nhàng
Vẫn cùng một tiếng tắc kè
Các
bài thơ Bến quê, Nợ Trường Sơn,Vẫn cùng
một tiếng tắc kè, Lời tâm sự của tấm
huân chương, Nghe tin chiến sự, Nhớ bạn, Tuổi quê, Nghĩa trang chiều cuối năm,
Gặp lại người cũ làm dầu khí, Trường Sơn,
Đồng ca, Chùa cũ người xưa, Di họa chiến tranh, Mẹ ơi, Cây da lách hoặc
trực tiếp hoặc gián tiếp nói về cuộc chiến đấu cam go, đầy mất mát hi sinh
nhưng cũng rất đỗi hào hùng. Viết nhiều
về chiến tranh như vậy là vì “ Có một
thời không thể dễ dàng quên” ( Lặng lẽ).
Trong thơ của Phạm Văn Đoan, người đọc như được cùng
tác giả trải qua những năm tháng chiến
tranh của đoàn xe vận tải. Những câu thơ bổ sung thêm vào hình ảnh chiến sĩ lái xe trong “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” nổi
tiếng của Phạm Tiến Duật:
…khói
bom trở lại
Pháo
sáng bủa vây trắng trời
Đoàn
xe không đèn không kính
Đợi
phà trong tiếng bom rơi
Cây da lách
Bom
cứ rơi và xe cứ chạy
Xe
cháy mấy lần người chưa chịu hi sinh
Thấm
lời hẹn hò dăng dọc Trường Sơn
Chùa cũ người xưa
Và
chúng ta đau nỗi đau của “di họa chiến
tranh”, chất độc màu da cam sẽ làm cho mất khả năng sinh nở hoặc sinh những đứa
con dị tật suốt đời :
Giải
phóng miền Nam
anh trở lại quê nhà
Đỏ
rực huân chương
Không
mảnh giấy chứng thương
Cái
chết từ mùi hắc dị thường
Chất
độc màu da cam
Bắt
đầu âm ỉ cháy.
Di họa chiến tranh
Chính
vì lăn lộn với chiến trường, cho nên kỉ niệm Trương Sơn không phai nhòa “ Trường Sơn/ Trường Sơn/ Còn thăm thẳm lòng
ta” ( Trường Sơn). Một câu thơ của đồng đội thời bom đạn, thời “Trường Sơn
lửa đỏ rực trời” bao năm vẫn rừng rực cháy:
Câu
thơ ấy đến bây giờ vẫn cháy
Rừng
rực thôi miên suốt dọc đời người
Bây giờ vẫn cháy
Cả
cách hành xử dứt khoát này cũng là cách hành xử dứt khoát, quả quyết của người
lính Trường Sơn :
Nếu
còn vấn vương là dở
Lòng
ta nhất định dửng dưng […]
Thế
là chiều nay gọn lại
Trực
chỉ Vũng Tàu thẳng bay
Trẩy
Không
có bản lĩnh Trường Sơn ấy, không thể viết được bài thơ đầy tinh thần hòa giải,
hòa hợp dân tộc :
Hú
vía một thời
Giờ
ngoảnh mặt lại
Mắt
còn hoa lên chớp đạn cầu vồng
Anh
là giặc trog tôi
Tôi
là giặc trong anh
Giặc
ở trong nhau hai thằng dân cùng một nước
[…]
Rượu đã tràn rồi còn chờ gì nữa
Uống
đi kìa
Ông
giặc của tôi ơi
Tôi và anh
Như
đã nói, ngoài món nợ lớn Trường Sơn, Phạm Văn Đoan còn nợ quê lúa Thái Bình.
Bao năm trận mạc hay bươn chải nơi xa xứ
(…chân
cứng đá mềm/Long đong đã thấm bon chen đã thừa), tấm lòng của tác giả vẫn
đau đáu nhớ về quê. Quê như một hằng số
bất biến trong trái tim nhiều nhung nhớ:
Còn
nguyên đấy một con đò
Còn
nguyên đấy một bến bờ đợi mong
Còn
nguyên đấy một dòng sông
Còn
nguyên đấy một nỗi lòng bâng quơ
Bến xưa
Kí
ức tuổi thơ, người mẹ quê nghèo, tin quê hết hạn cháy đồng đến
lũ lụt trắng băng làm người thơ “nát lòng”…tất cả đều được giãi bày mong
…trả nợ. Thậm chí Phạm Văn Đoan yêu quê đến mức “ bảo thủ” khi ao ước và mong
muốn:
Làng
ta ơi, xin hãy cứ là làng
Hãy
cứ nhà tranh bếp rạ rơm vàng
Hãy
cứ chợ chiều đẩy đưa mặc cả
Làng ta
Người
đọc không thể không mỉm cười. Và nhớ lại chuyện thi sĩ Nguyễn Bính “ van em em hãy giữ nguyên quê mùa” nhưng
đâu có được!
Tất nhiên, dù nặng lòng, dù luôn luôn
hoài niệm về quê làng, về Trường Sơn,
song người lính ấy không chỉ sống bằng hoài niệm. Anh là người hành động, cho
nên món nợ với ngành dầu khí cũng là một khoản mà nhà thơ phải…trang trải. Có
thể đọc trong tập này các bài : Thợ lặn, Nhớ bạn,
Giao thừa trên giàn khoan, Gặp lại người cũ làm ngành dầu khí, Làng Nga,
Mẹ đi giàn, Đêm giàn khoan,… Những bài thơ về chủ đề này nổi trội so
với những người đã viết về dầu khí, góp phần cho bạn đọc thấy một ngành nghề
vất vả, nhiều hi sinh thầm lặng “ giọt
dầu đen xương trắng máu hồng” chứ không phải toàn ánh hào quang.
Cuối cùng là món nợ với bâng quơ, với
tóc dài, tóc tém mà người thơ đã gặp tình cờ hay hữu ý. Về mảng thơ này, Phạm
Văn Đoan viết khá tung tẩy và có giọng điệu riêng. Nhiều khi tác giả “ Quên màu thời gian trên tóc/ Hồn nhiên mãi
tuổi hai mươi” ( Hè về). Những mối tình đơn phương, những “ dự cảm vừa nhen”, những “ tình cờ dễ lạ dễ thân”, những “bâng quơ”
một lần Đi đò, một lần Trú mưa, hay một Chiều hoa Đà Lạt… những Nữ hoàng mất ngôi và Tướng quân hết thời cưỡi
trâu…Những điều đó làm cho tập thơ đa
thanh. Người ta hay nhắc đến bài thơ Thèm
lén, một thú nhận chân thành của người thơ :
Trời
xuân phơi phới hong tơ
Cô
hàng xóm quẩy đôi vò rượu xuân
Vợ
vừa xa, rượu đang gần
Ước
gì bí tỉ một lần rồi thôi
Dẫu
sao thì đó cũng chỉ là một dạng “lén”,
một dạng ước ao của thi sĩ nhiều mơ mộng, một người “ uống tràn vẫn tỉnh” trong buổi phơi phới
mời gọi của mùa Xuân.
Có thể thấy ngoài giọng nghiêm trang, nhiều suy ngẫm của
người từng trải là giọng tha thiết có chút
ngậm ngùi khi nói về quê hương, tung tấy, trẻ trung khi nói về những mối tình;
nghình nghịch, tếu táo khi hồi ức một thời “ Dở khờ khạo dở ranh ma/ Dở yêu dở ghét dở bà dở ông”; giọng hài hài khi Ghi ở làng Nga, khi Tiếp bạn;
giọng ngụ ngôn trong Viết cho con, Xổ số, Bài thơ chưa có tên;
giọng châm biếm trong Vô đề… Tất cả
các giọng điệu đó thống nhất trong một tâm hồn thơ chân mộc, bình dị, chắc khỏe, đủ sức găm vào
kí ức người đọc./.
Hà Nội, 17/2/2015
In báo Văn Nghệ, Hội nhà Văn Việt Nam số 17+18 năm 2015
Cảm ơn bác Vũ Nho đã giới thiệu chia sẻ
Trả lờiXóaCám ơn bạn đã ghé trang và chia sẻ!
Xóa