Nguyễn Hòa Bình: Một tập thơ và một bài thơ
NHN Nhà thơ Nguyễn Hòa Bình (sinh
1953 tại Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc, nhưng sống và làm việc gắn bó nhiều năm với Hà
Nội), từng tham gia quân ngũ (1972-1976), từng công tác tại báo An ninh Thủ đô,
Hà Nội mới. Anh là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà văn Hà Nội, Hội Nhà
báo Việt Nam. Ngoài thơ in chung trong các tuyển tập, anh là chủ nhân của ba
tập thơ Tìm về (1998), Hỏi mình (2004) và Lửa than (2018).
Tập thơ Lửa than (gồm 54 bài) của nhà thơ Nguyễn Hòa Bình
mới “ra lò” đã nhận được sự đồng cảm của độc giả. Đặc biệt hơn cả, trong tập có
bài thơ Về với Quan Sơn, viết nhân chuyến thực tế tại một huyện miền núi Thanh
Hóa, đã được trang trọng chọn in vào Sổ tay Đảng viên của Đảng bộ tỉnh Thanh
Hóa - Huyện ủy Quan Sơn (Nhà xuất bản Thanh Hóa, 2018). Ngoài những nội dung
quan trọng thường thấy của một Sổ tay Đảng viên, bài thơ Về với Quan Sơn được
coi như một tài liệu học tập của hơn 3000 Đảng viên trong một Đảng bộ lớn.
Thiết nghĩ, đó là sự đánh giá cao công tác tư tưởng – văn hóa bằng văn học nghệ
thuật, cụ thể hơn là văn chương/ thơ ca.
Lửa than, tên bài thơ được dùng đặt tên cho cả tập thơ gợi
mở cảm hứng về sự sống. Lửa, với Nguyễn Hòa Bình là “Ta nhận về mình cực nhọc/
Ta nhận về mình cay đắng thời gian/ Ủ thành than/ Mơ cháy”. Đọc những câu thơ
này độc giả cảm nhận được cái ý tứ sâu xa – trước khi hóa thành ngọn lửa hãy ủ
kỹ, ủ từ than hừng hực nóng, từ sức nóng vô biên đó mới có thể “mơ cháy”. Ai
sống trên đời mà chẳng mơ mình cháy lên thành ngọn lửa. Nhưng nếu không được chuẩn
bị kỹ càng thì biết đâu là lửa rơm, bùng phát, bốc cao, nhưng chóng lụi tàn.
Ngọn lửa sống tất nhiên phải xuất phát từ chính giữa cuộc đời, dẫu cho giữa
dòng trong – đục. Nếu không từ ngọn nguồn đời sống thì chỉ có thể bùng lên lửa
than như câu thơ kết “Từ trong hư ảnh có bùng lửa than?”. Lửa than là một bài
thơ đậm chất triết lý. Nhưng may mắn không rơi vào “triết lý vặt” đang nhan
nhản trong văn chương/ thơ ca hôm nay khi tác giả của nó còn tỏ ra hết sức non
nớt, khi chưa sống đến độ, khi còn vội làm dáng, điệu đà.
Nhà thơ Nguyễn Hòa Bình
Nhà nghiên cứu phê bình Bùi Việt Thắng
Thời gian “chiều” là một cảm hứng xuyên suốt tập thơ. Trong
số bạn bè văn chương Hà Nội, Nguyễn Hòa Bình được “phong” cho một cái tên đặc
trưng – Bình Chiều. Vì sao? Vì thơ anh tràn ngập cảm thức thời gian chiều trong
sự tuần hoàn của một ngày hai tư giờ, rộng ra là sự tuần hoàn của vũ trụ. Có
người thì cảm xúc nghiêng về ban mai. Có người thì ban trưa (chính ngọ), có
người thì buổi tối. Tôi “đếm” được 36 từ “chiều” trong tập Lửa than. Chiều là
một “thời gian nghệ thuật” trong thơ Nguyễn Hòa Bình. Nhưng “chiều” thật đa
dạng, phong phú về màu sắc, âm thanh, đường nét, mùi vị, cảm xúc qua những câu
thơ: Chiều sập xuống có gì hoang vu quá/ Thì vẫn biết, ngày sẽ chiều sập xuống/
Cái màu chiều bối rối/ Quán bia chiều/ Chiều đùng đục lạnh tanh hơn nước lã/
Chiều rơi một tiếng ru gày/ Chiều gày, tiếng mẹ lưng trời/ Chiều trôi dạt ngộp
trong từng nhịp thở/ Nghe chiều chợt trở heo may/ Thì chiều nay cùng biển, cạn
với mình/ Phố chiều luễnh loãng màu sương khói/ Phố chiều ngai ngái mùi cỏ mật/
Phố chiều xao xác lời gió trách/ Một Sùng Ân Tự ngân nga chuông chiều/ Tìm
chiều trong chút heo may/ Sông Lò chảy vắt ngang chiều Thanh Hóa/ Bản Cột Mốc,
trung thu, nghe chiều gọi/ Một chiều trăn trở Lạng Sơn/ Cho chiều nay ta bên
em/ Chảy cùng day dứt vấn vương một...chiều/ Bóng lau ngả che khuất chiều Tây
Bắc/ Cái màu chiều xanh đến rối lòng nhau/ Ai giữ lại chút màu chiều của gió/
Thành một chiều Soài Rạp nắng và... em/ Chỉ có chiều tím dại đến hoang vu...
Nếu nói lý thuyết thì đấy chính là “thi pháp” thơ Nguyễn Hòa Bình khi nhà thơ
nghiêng cảm xúc về thời gian sống, thời gian yêu. Và hơn thế, cái trực giác/
trực cảm trong thơ Nguyễn Hòa Bình rất mạnh, đậm, lan tỏa, chí cốt không kém
phần lý tính. Đó là một sự cân đối, hài hòa của thơ dẫu là viết về thế sự hay
tình yêu. Đọc thơ Nguyễn Hòa Bình, nhất là cảm xúc về thời gian “chiều”, thấy
thơ này đã được “ủ” kỹ, tưới tắm kỹ, và khi chưng cất thành câu chữ thì có cái
cảm giác mỗi lần đọc là “chầm chậm tới mình”. Thơ Nguyễn Hòa Bình vì thế phù
hợp với người có tuổi, sống chậm, thích suy tư, với người trải nghiệm, đặc biệt
trải nghiệm văn hóa.
Về với Quan Sơn là một bài thơ hay và ngắn (chỉ có 4 khổ, 16
dòng). Để biết vì sao nó được đưa vào Sổ tay Đảng viên của Đảng bộ huyện Quan
Sơn (Thanh Hóa), thiết nghĩ tốt nhất mời quý độc giả thưởng thức toàn văn:
Sông Lò chảy
vắt ngang chiều Thanh Hóa,
Có lẽ nào không
về với Quan Sơn.
Ta tìm lại Na
Mèo phiên chợ ấy,
Mắt ai cười
nghiêng ngả cả hoàng hôn.
Tìm Pha Dua
truyện tình cũ say hơn,
Mường Xia nhắc
tháng ba mùa lễ hội.
Màu áo cóm sáng
bừng trời biên giới,
Bay bồng bềnh
trong muôn nhịp xòe hoa.
Bay bồng bềnh
trong khung cửi em ta,
Sơn Thủy gọi
nồng nàn men rượu lá.
Pa pỉnh tộp (*)
ai làm sao khéo quá,
Để nao lòng
người và đất Quan Sơn.
Thì một lần qua
Bo Cúng đi em,
Trong man mác
hương rừng và hương núi.
Ngỡ ngàng
quá cái cách em qua suối,
Gái Thái mà... anh chưa biết đâu
anh!
Bài thơ có một chú thích nhỏ, tuy nhiên không làm rối độc
giả (pa pỉnh tộp là món cá suối nướng lật úp, được coi là món ẩm thực cổ truyền
của người Thái). Phải nói ngay rằng bài thơ đã hiển hiện cái trạng thái tình
cảm người ta vẫn thường gọi là “phải lòng đất nước”, ở đây là phải lòng cảnh và
tình một vùng đất đặc biệt - Quan Sơn, Thanh Hóa. Không gian sống ở đây còn giữ
được cái trinh nguyên của tự nhiên, nó khác xa cái ồn ào, xô bồ của phố
thị. Ở đây có những phiên chợ vùng cao với đặc sản của một vùng quê có thể tìm
thấy ở đó những “ánh mắt cười nghiêng ngả cả hoàng hôn”, ở đó vẫn còn giữ
nguyên được “màu áo cốm sáng bừng trời biên giới” và còn nguyên vẹn những cổ
truyền ẩm thực “pa pỉnh tộp ai làm sao khéo quá”. Nghĩa là nếu ai muốn trở về
với tự nhiên, đôi lúc còn nguyên sơ và hoang dã, thì hãy đến miền đất này.
Nghĩa là, ở Quan Sơn bạn có thể thư thả, ung dung hòa mình vào trời đất, sản
vật, tình người. Nhưng đẹp nhất, ấn tượng nhất vẫn là “ngỡ ngàng quá cái cách
em qua suối”. Không nói thì với ai dù chỉ một lần nhìn các cô gái Thái qua
suối, sẽ bị thôi miên. Cái cách mà các cô gái vùng sơn cước tự hào “gái
Thái mà... anh chưa biết đâu anh!” là gì vậy? Xin phái mày râu cứ tha hồ
phát huy trí tưởng tượng nhưng đừng có... tưởng bở! Nhà văn Nga I. Erenbua có
một câu tôi ghi vào sổ tay văn học cách nay đã 50 năm, giờ đọc lại vẫn thấy như
mới được viết, đại ý, lòng yêu nước phải được bắt đầu từ lòng yêu gia đình,
người ruột thịt, quê hương làng xóm; lòng yêu từ dòng suối nhỏ đổ ra sông, nhập
vào dòng sông lớn, rồi đổ ra biển cả. Không có lòng yêu nước trừu tượng, thậm
chí huyễn hoặc, hoang đường.
Trở lại câu hỏi vì sao bài thơ Về với Quan Sơn của Nguyễn
Hòa Bình lại được đưa vào Sổ tay Đảng viên của một Đảng bộ lớn ở Thanh Hóa? Như
chúng ta biết, công tác tư tưởng - văn hóa lâu nay thường xuyên được tiến hành
không chỉ với đảng viên, cán bộ có vị trí lãnh đạo từ thấp đến cao, mà quan
trọng hơn với quảng đại quần chúng. Cái nhan đề bài thơ Về với Quan Sơn, riêng
tôi chú ý nhiều đến chữ “về”. Người Việt Nam thường hay nói “về nhà”, “về quê”,
“về nước”, “về nguồn”,... nó khác với chữ “đi” – đi học, đi làm, đi nước ngoài,
đi xa... Đây là hai động hướng khác nhau trong đời người. Đi thì xa, về thì
gần, trong tiếng Việt thân thương nghĩa của mỗi từ hàm súc đến tận cùng. Về là
chân tủy của tình cảm. Đi là thôi thúc của lý trí (đi tới, đi lên, đi xuyên văn
hóa). Nhà thơ Đồng Đức Bốn có bài thơ hay Ta về với mẹ ta thôi. Nghĩa là khi
nào ta “về” chính là lúc ta trở lại cội rễ, trở lại những gì căn cốt nhất của
con người. Trong các phương pháp giáo dục thì giáo dục bằng nghệ thuật là hữu
dụng, linh nghiệm nhất.
Nguyễn Hòa Bình là người lính trở về
nhà sau chiến tranh cũng do số phận đã mỉm cười với anh. Một đồng đội đã hy
sinh trong vòng tay anh trong chiến dịch Hồ Chí Minh xuân 1975, tại mặt trận
Buôn Ma Thuột. Một người mãi mãi không trở về nhà. Một người may mắn thoát khỏi
lưỡi hái tử thần chiến tranh trở về nhà. Tiếp tục học hành theo nguyện vọng.
Tốt nghiệp ngành Hán Nôm khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Học văn
nhưng làm báo. Đấy chính là anh trở về với sự lựa chọn có vẻ ngẫu nhiên nhưng
tất nhiên. Nghề báo nhưng nghiệp văn. Ấy cũng là duyên nghiệp đưa anh về với
căn tính của mình. Vậy nên nói vui “Bình Chiều” đến tận hôm nay đã thành
“Bình Về” - về đúng nơi mong muốn từ thuở nhỏ - về với thi
ca.
Bùi Việt Thắng
Chép lại từ Người Hà Nội
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét