“SẬP
HẦM” VÀ KÌ VỌNG CỦA NGƯỜI VIẾT
Đọc
“ Sập hầm”, tiểu thuyết của Nguyễn Cao Thâm, nhà xuất bản Hội nhà văn, 2018
Vũ Nho
Nguyễn Cao Thâm là người của mỏ. Anh lăn lộn với nghề
mỏ và những người thợ mỏ.
Tác giả từng làm
bảo vệ gác kho thuốc nổ, từng
làm thợ lò, rồi làm Phó quản đốc phân xưởng, chỉ huy sản xuất ở Công ty
Xây lắp mỏ Mông Dương…Khi chuyển sang làm báo, anh làm Phó tổng biên tập tạp chí Than. Một
tạp chí của ngảnh mỏ. Anh là nhà báo, nhà văn của mỏ, nên có thể nói vốn sống về
mỏ của anh thật dồi dào. Cái vốn sống ấy, anh đã thể hiện trong các bài báo,
trong các tập sách chân dung, kí sự, phóng sự. Và mới nhất, năm 2018 là trong
tiểu thuyết “ Sập hầm”, ấn hành tại nhà xuất bản Hội Nhà văn.
Cuốn tiểu thuyết khoảng 300 trang, chỉ vẻn vẹn 4 chương
và phần mở đầu “Cái búa chém” dài 2 trang rưỡi, nói về vật dụng của thợ lò bậc cao mà nhân vật
Thạch Ngầu dùng chặt chân Tổng giám đốc
khi gặp tai nạn “sập hầm”. Bốn chương sách có nhan đề khá ngắn gọn: Chương 1. Những người “lập dị”; Chương 2. Than
“thổ phỉ”; Chương 3. Sập hầm; Chương
4. Cuộc chiến trong lòng đất. Trong mỗi
chương lớn lại gồm những “đoạn” có nhan đề rất khơi gợi như : “Người hèn “toàn
tập”; “Ông giám đốc bị cách chức”; “ Người cẩn trọng”; “Cái bắt tay định mệnh”;
“ Cuộc mặc cả lúc bốn giờ sáng”; “ Kẻ độc tài”; “Quả báo”,… Mỗi một đoạn trong
chương là một câu chuyện, một mắt xích nối các nhân vật xoay quanh sự kiện làm than, “sập hầm”, cuộc vật lộn của các nhân vật trong đường hầm
lò sập, cuộc cứu nạn của những người bên ngoài.
Tác giả tiểu thuyết đã dựng lên chân dung các nhân vật
liên quan đến việc đào than, sập hầm, trong đó nổi bật là ông Thạch Ngầu, thợ mỏ
bậc cao; rồi Tổng Giám đốc Văn Chèo, vốn là một tay đào than thổ phỉ; và một lãnh
đạo cỡ tỉnh với biệt danh “Quán Triệt”, vị công dân số 1. Cô nhà báo Hồng Ngọc,
nhân tình của vị lãnh đạo. Tai nạn sập hầm là tai nạn từng xảy ra ở vùng mỏ mà tác giả được chứng kiến. Chuyện dùng
búa chém chặt chân đồng nghiệp trong tai nạn để cứu mình và cứu bạn cũng là
chuyện dân mỏ ai cũng biết. Việc hư cấu
của nhà văn chỉ là tạo ra một cuộc “sập hầm” tưởng tượng để các nhân vật bị kẹt trong tình
thế hiểm nghèo, bị đối diện với cái đói, cái khát, nỗi sợ hãi cái chết. Trong hoàn cảnh
đó, bản chất của nhân vật tốt và xấu đã
bộc lộ một cách trần trụi, mãnh liệt nhất.
Ấn tượng của
người đọc về nhân vật quan cỡ tỉnh không chỉ là từ ngữ cửa miệng của ông ta :
“Quán Triệt” khi ông đi phát biểu, mà là sự sa đọa trong lối sống, sự cấu kết với
“doanh nghiệp” để đục khoét tài nguyên. Quán Triệt là em trai bà Bí thư tỉnh ủy. Tác
giả thông qua lời một nhân vật khác , người lái xe để bình luận về vị quan chức Giám đốc sở này: “ Không! Ông không phải là người! Ông là con
quỷ đội lột người! Ông nham hiểm, ông tráo trở. Ông tham lam bỉ ổi. Chính ông
đã đẩy chúng tôi xuống địa ngục này” ( trang 245). Cô nhà báo, nhân tình của
ông ta cũng nói thẳng về bản chất của ông ta : “Ông giàu sụ, ông đầy tiền; ông đầy đất, ông có hai biệt thự, vậy mà ông
vẫn lập mưu cướp đất hương hỏa của anh trai ông. Cháu ruột ông, học hành bằng cấp tử tế, xin vào cơ quan
ông, ông còn bày trò thi cử gạt cháu ông ra để tiếp nhận người khác chỉ vì tiền.
Ông thừa mứa vẫn đối xử thậm tệ với ruột thịt mình như vậy” ( tr.245). Khi
bị kẹt trong hầm lò, ông Thạch Ngầu hỏi Văn Chèo về sự hùn vốn của ông Quán Triệt,
nghe xong, ông Thạch đã phải văng tục : “ Mả
cha thằng Quán Triệt! Tiên sư bọn ăn trên ngồi trốc bóc lột dân đen! Vậy thì
mày không thể chết, Chèo ạ. Mày phải sống để vạch mặt bọn khốn nạn. Tao cũng vậy.
Tao với mày phải sống để trả nợ cuộc đời” ( trang 266).
Tác giả đã cố ý sắp xếp để vị Công Dân Số Một Lê Quán
( Quán Triệt) cùng chung một đoạn hầm sập với Công Dân Số Hai của cơ quan là Ca
Men và nhà báo Hồng Ngọc là nhân tình của ông ta. Ca vốn là nhân viên lái xe của
ông Quán Triệt. Ca “biết hết mọi chuyện
bí mật của ông Quán Triệt; nó thay mặt ông Quán Triệt nhận hối lộ và đưa hối lộ;
nó dắt gái cho ông Triệt…”. Anh chàng như một tôi tớ của ông chủ, hầu hạ ông
ta, vợ ông, con cháu, anh em họ hàng, và cả cô nhân tình của ông nữa. Anh ta đóng
vai tận tụy, trung thành “như diễn viên siêu hạng”. Chỉ khi trong đoạn hầm sập,
anh ta mới có cơ hội trở thành kẻ “độc tài” trả thù cho những ngày cúc cung tận
tụy như một con chó.
Hông Ngọc thừa nhận, chính là cô là “đĩ bút” như Ca
Men rủa xả. Hồng Ngọc làm báo, nhưng bài viết, tin tức của cô đều từ những “sếp
lớn” đưa cho. Để có được những tư liệu hay hợp đồng quảng cáo, cô đánh đổi bằng cả thân xác mình. Với tay chủ tịch
Yên Bình cô đổi tình dục lấy hợp đồng quảng cáo hai trăm triệu. Cô làm người tình
của Quán Triệt để có tiền, có xe đi. Ca Men mắng mỏ Hồng Ngọc : “ Mày biết nghề đĩ bút là gì không? Là cái nghề
viết thế nào cũng được. Có tiền thì mày khen. Không có tiền thì mày chửi.” Anh
ta còn mỉa mai cô : “Nhưng cái giá làm đĩ
của cô em như vậy cũng chưa phải là cao đâu nhé. Anh biết có những em nhờ làm
đĩ mà được lên chức, lên quyền. Đó mới là đĩ siêu hạng.” ( tr.271).
Và trước cái chết, cả ba nhân vật bộc lộ mình một cách
trần trụi, tranh giành can nước, túi bánh. Không có tình nghĩa thủ trưởng với lái
xe. Không có quan hệ nhân tình nhân ngãi. Không có tình cảm của con người với
con người.
Cô nhà báo Hồng Ngọc đã nói trắng phớ ra với ông Quán Triệt rằng “Tôi là con khốn nạn. Ông cũng khốn nạn. Ông Ca cũng khốn nạn. Chúng ta
đều khốn nạn” ( trang 277).
Vị “Tổng giám đốc công ti Thành Đạt” Văn Chèo là một
nhân vật biếm họa khác. Vốn là một tay có “bệnh” thích nhòm trộm chị em, Chèo đã
lần mò xem chị em tắm sông. Không thỏa, chú chàng còn rình xem chị em ở nhà tiêu
( nhà vệ sinh) ban ngày. Rồi rình xem người đàn bà chửa…bị chị ta vứt nắm tro vào
mặt kèm câu chửi tục. Ra mỏ làm, Chèo lại rình mò nhà tắm của chị em để xem. Bị
“lộ” vì hắt xì hơi, Chèo chuồn vào nhà ông Thạch Ngầu để lại tiếng xấu cho ông.
Văn Chèo, theo đánh giá của Phượng Bốc “là
thằng vô học, vô văn hóa”, là “cái thằng
thổ phỉ học lớp hai khai lớp bốn”. Công ti của Chèo là sân sau của Quán Triệt,
thực chất là biến tướng của tổ chức đào
than thổ phỉ! Nhàn, nhân vật tiếp viên
được Văn Chèo đưa về phụ trách nhà văn hóa đã nói thẳng vào mặt Tổng giám đốc :
“Đừng vội tưởng có lãnh đạo bảo kê, chống
lưng; mấy bài báo tung hô mà vội huênh hoang nhá! Sập tiệm đến nơi rồi! Một
doanh nghiệp mà làm giàu bằng sự chụp giật của một gã nhà quê lưu manh thì chỉ
lừa phỉnh được những kẻ sính lợi nhất thời, sớm muộn cũng sập tiệm, đừng hòng
mà nói đến văn hóa doanh nghiệp nhá!” ( trang 152). Công ti trá hình ấy nhưng
Văn Chèo chịu chơi, biết bỏ tiền để thu phục người giỏi như kĩ sư Nhật, như ông
thợ cả Thạch Ngầu. Vì làm ăn kiểu chụp giật của lối lấy than thổ phỉ, không đầu
tư gia cố hầm lò nên sự cố sập hầm xảy ra. Chèo tiếc của đã bỏ ra đầu tư mà chưa thu hồi được vốn nên bất chấp hiểm
nguy, xuống lò ngày giáp tết. Rồi Chèo bị kẹt chân và để cứu Chèo, ông Thạch Ngầu đã phải dùng búa chém chặt đứt bàn chân đó.
Văn Chèo, Thạch Ngầu và Đang bị kẹt trong một đoạn đường
lò khác. Trong hoàn cảnh bi đát còn hơn
cả ba nhân vật Lê Quán, Hồng Ngọc và Trần Ca, nhưng họ đã chống chọi với nguy
hiểm, với sự tuyệt vọng và tìm mọi cách để liên hệ với lực lượng cứu hộ. Chính ông
Thạch, người được đào tạo ở Liên xô đã hết sức bình tĩnh phán đoán và xử lí các
tình huống dưới hầm. Cái chết của Đang do bất cẩn không làm ông Thạch nao núng
hay buông xuôi. Mặc dù Văn Chèo hứa chi thưởng
rất nhiều tiền, nhưng ông Thạch, hay Đang đi vào chỗ nguy hiểm không chỉ vì tiền,
mà cái chính là vì cái tình của con người với con người. Các nhân vật khác như
Văn Văn, bà Lan què, Nhật “Điếc”, những công nhân có mặt trong đợt cứu nạn lúc
năm cùng tháng tận đều thể hiện tình cảm của những người làm mỏ. Họ xuống lò để
cứu nạn, bất chấp lời phản đối lạc lõng của Phượng Bốc, nhân danh công đoàn bảo
vệ quyền lợi của công nhân.
Có thể nói tác giả đã khắc họa được một loạt chân dung
đa dạng của những người làm mỏ. Từ giám
đốc bị cách chức đến Tổng giám đốc đương chức; từ người kĩ sư nhiều bằng nhưng chỉ có thể làm việc vặt
như ông Lùng đến kĩ sư xịn nhưng không được sử dụng hết năng lực như Nhật. Rồi
người lái xe cho sếp, nhà báo, người bán quán. Không có chuyên môn và không lăn
lộn với mỏ không thể nào viết về cuộc sập hầm và cứu nạn sinh động như vậy. Một
ưu điểm khác cần ghi nhận là chất hài hước
trong tác phẩm. Tác giả đã miêu tả chế giễu ông Quán Triệt bận rộn, hứa nói ngắn
gọn nhưng lại tràng giang đại hải. Hàng
loạt các “sự kiện” thấm đẫm chất hài và bi hài. Việc bình thơ ở nhà văn hóa, việc
“sáng tác” thơ, nhạc của Tổng giám đốc Văn Chèo, việc ghi chép tỉ mỉ của ông Lừng. Rồi mối tình của Đang với chị Nhàn, ông Thạch
Ngầu với cô Hà. Cả việc đóng vai người dẫn chương trình của ông Thạch Ngầu và cái
cười đặc trưng “ê hề hế” của ông…
Tôi cho rằng viết về
“sự cố” sập hầm do người lãnh đạo
văn hóa thấp quen đào than thổ phỉ liên kết với người có quyền chức, lại mua ngòi
bút của nhà báo ca ngợi, tô vẽ,..chính là nguyên nhân của sự “sập hầm” và có thể
dẫn đến sụp đổ hệ thống hầm lò, gây ra thảm họa cho dân mỏ. Đơn giản vậy thôi. Nhưng vậy cũng đủ làm nên
thành công của tiểu thuyết.
Trong khi đó, tác giả lại cho rằng thông điệp mà anh
muốn hướng tới người đọc và cũng chính là kì vọng của người viết là : “ Vụ sập hầm được miêu tả trong tiểu thuyết “Sập hầm” cũng như những thảm
họa thiên nhiên trên thế giới là kết cục về dục vọng tham lam vô độ của con người.
Tôi tin rằng dục vọng tham lam của mọi cá nhân cũng như dục vọng của mọi quốc
gia sẽ bị trừng phạt vì sự tàn phá điên cuồng của họ, dẫn đến sự sụp đổ lớn
hơn, tai họa với loài người khủng khiếp hơn! Chỉ có sự kìm chế dục vọng và tình
thương yêu giữa con người với con người mới cứu được thảm họa thế giới” ( Lời
tác giả).
Có lẽ muốn nhấn
mạnh “thông điệp” này, tác giả đã cho anh chàng Ca Men lái xe “ nho nhe” nhắc lời
Lão Tử để nhục mạ ông Quán Triệt “Tất
cả là tại cái lòng tham vô đáy của ông! Ông có biết Lão Tử dạy “Tri chỉ” và “Tri
túc” nghĩa là gì không? Đó là sống trên
đời phải biết dừng và biết đủ. Một khi lòng tham vượt quá giới hạn thì ắt sẽ phải
chịu sự trừng phạt, ông hiểu không?” ( tr. 255).
Nhưng mấy câu nói
như thế là chưa đủ cho thông điệp, nhất là người viết lại muốn nói đến “ dục vọng của mọi quốc gia”.
Tôi tán thành với sự tự đánh giá tỉnh táo : “Do năng lực có hạn nên tác giả chưa làm sáng
tỏ thông điệp trên” ( Lời tác giả). Thông điệp quá lớn
lao ấy, tác giả kì vọng nhưng chưa
làm sáng tỏ thì cũng không vì thế mà tiểu thuyết “ Sập hầm” kém đi giá trị. Với kinh nghiệm sống và viết lâu năm của tác
giả, đây vẫn là một tiểu thuyết thành công về
mỏ và những người thợ mỏ.
Hà Nội, 14
tháng 5 năm 2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét