VŨ BÌNH LỤC - NGƯỜI CÓ DUYÊN
VỚI VĂN THƠ CỔ
Vũ
Nho
Có một điều lạ là những người tuổi
Mậu Tí ( 1948) thường là người gắn với duyên bút mực. Và sức viết, sức in thật đáng
nể. Nhà thơ kịch tác gia Lưu Quang Vũ với sự nghiệp đồ sộ, nhà thơ Trịnh Thanh
Sơn với tuyển tập hàng nghìn trang khổ lớn, nhà văn Nguyễn Hiếu với hơn hai mươi
tiểu thuyết ( chưa kể thơ, kịch, phê bình, truyện ngắn) và nhà giáo nhà văn Vũ
Bình Lục.
Ông Vũ Bình Lục được giải cao về thơ của Tạp chí Văn Nghệ Quân
Đội, đã in đến 8 tập thơ riêng và một tập thơ chọn. Tính đến năm 2017, đã in 21
đầu sách gồm thơ, tiểu luận, tùy bút, bút kí và bình thơ. Tác giả thông báo sắp
in thêm 6 tập sách nữa. Điều đáng nói là Vũ Bình Lục toàn in sách bìa cứng sang
trọng [ các cuốn Giai phẩm với lời bình (5 tập), tùy bút, thơ tuyển, “Hồn thiền trong thơ Lí Trần”, Bình giải thơ
Nguyễn Trãi (2 tập) đều bìa cứng mà hầu hết bạn bè văn chương vô cùng thán phục].
Theo thông báo trên trang FB của tác giả, 5 tập sách bìa cứng “ Giải mã kho báu
văn chương” vừa được nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 2018.
Là một người lính từng cầm súng
trực tiếp chiến đấu ở chiến trường khu Năm thời chống Mĩ, nhưng duyên nghiệp của
Vũ Bình Lục lại gắn với nghề dạy học. Và ông giáo Vũ Bình Lục làm thơ viết văn,
viết bình giải các tác phẩm của tiền nhân có trong chương trình Ngữ văn THPT, mở
rộng ra các tác phẩm của các tác giả trong lịch sử thời Lí - Trần, các tác giả
lớn khác như Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát.
Vũ Nho chủ trang
Viết nhiều mảng như vậy, nhưng có lẽ tên tuổi
của Vũ Bình Lục gắn liền với việc bình giải các áng văn chương cổ chữ Hán và chữ
Nôm. Nghiên cứu các tác phẩm Hán –Nôm đòi
hỏi sự vượt khó ghê gớm, nhất là đối với
người không chuyên về Hán –Nôm. Vượt qua giới hạn về trình độ chữ Hán vốn khiêm
tốn, Vũ Bình Lục đã miệt mài, cẩn trọng đọc kĩ các tài liệu của người trước. Rồi
so sánh, đối chiếu, và dựa trên những dự cảm nhạy bén của mình, đưa ra cách hiểu
hợp lí nhất đối với văn bản của người xưa.
Phải có một niềm say mê lớn; phải
có một ý thức cao; phải có sự kiên trì, tỉ mỉ,…Nói tóm lại là phải có “duyên” với
văn học cổ mới có đủ bình tâm để theo đuổi công việc nghiên cứu, bình giải, những
áng thơ cổ với những điển tích, điển cố, với cách viết bằng thứ chữ Hán, chữ Nôm
càng ngày càng xa với mọi người.
Nói về việc tinh tuyển, không phải là Vũ Bình Lục
không có đóng góp. Thành tựu nghiên cứu
về thơ Lí -Trần của nước ta có một bước phát triển mới. Nếu so với các bài thơ
thời Lí- Trần được tuyển trong “ Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ X- thế kỉ XVII” nhà xuất
bản Văn hóa, Hà Nội, 1962 thì quả thật số bài thơ được tuyển trong sách của Vũ
Bình Lục đã vượt khá xa. Tuy nhiên, tác giả cũng đã thừa hưởng thành quả của
các cuốn sách “Thơ Văn Lí –Trần”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978 và “ Tuyển
dịch thơ đời Lý- Trần” của Đinh Văn Chấp, NXB Lao Động, 2010. Mặc dù trong quá trình tuyển chọn, tác giả đã
đối chiếu, bổ khuyết, điều chỉnh một số chú thích sai hoặc không phù hợp. Nhưng
nhìn chung, cái công ở đây là có, nhưng không nhiều.
Phần đóng góp quan trọng của Vũ Bình Lục chính là phần
dịch thơ và bình giải.
Về dịch thơ, tác giả đã nghiền ngẫm kĩ nguyên tác,
thêm nữa, với vốn liếng khá dày của một người làm thơ đã có 8 tập thơ in, đã từng
được giải cao trong cuộc thi thơ của Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, Vũ Bình Lục đã
cung cấp nhiều bản dịch khá hay về thơ của tiền nhân. Có một số bài chưa có bản
dịch thơ, thì bản dịch của Vũ Bình Lục lại càng quý. Những bài đã được tiền
nhân dịch, Vũ Bình Lục cung cấp một cách cảm khác, nhất là cách diễn đạt khác,
cho người đọc thấy vẻ lung linh của bài thơ nguyên tác. Thơ Lý-Trần có nhiều
bài có vị thiền, nhiều bài “kệ” ý tứ thâm sâu phải có hiểu biết nhất định về đạo
Phật mới có thể hiểu được. Rồi từ hiểu mà chuyển thành thơ để người khác cũng
hiểu và rung động với người xưa. Việc ấy không phải ai muốn là có thể làm được.
Mặt khác, thơ của người xưa cách chúng ta gần một ngàn năm với những điển tích
đòi hỏi phải tra cứu công phu mới tránh được hiểu “sai một li đi một dặm”. Như
tác giả có bộc bạch : chỉ riêng việc hiểu hai sự vật “áo chiến bào” và “cờ Hán”
trong thơ Nguyễn Trung Ngạn, phải mất cả một ngày để săm soi tài liệu. Bên cạnh
đó chắc chắn không tránh khỏi khó khăn là rào cản ngôn ngữ.
Nhìn một cách tổng thể, những bản dịch thơ của Vũ Bình
Lục về cơ bản là thành công. Nhiều bài thơ chữ Hán, sau khi dịch nghĩa vẫn có cảm
giác khó hiểu, nhưng Vũ Bình Lục đã chuyển sang bản dịch thơ một cách tinh tế,
dễ hiểu và dễ cảm. Một số bản dịch đạt chất lượng cao theo tiêu chuẩn tín, đạt,
nhã.
Phần đóng góp
nhiều nhất theo cách đánh giá của
chúng tôi là phần bình giải của tác giả tập sách.
Nếu ở các tập giai phẩm với lời bình trước của Vũ Bình
Lục, phần lời bình là phần quan trọng nhất, viết tung tẩy, phóng khoáng, thì ở các bài bình thơ cổ, phần bình được viết thận
trọng hơn, chắc chắn hơn và tất nhiên có vẻ “khô khan” hơn. Cũng đúng thôi, vì ở
đây bình cho đúng, cho trúng cũng đã là một thành công lớn rồi. Với thơ cổ thì giải (
chúng tôi hiểu gồm chú giải, giải thích) là một phần rất quan trọng. Chú giải
đúng, giải thích đúng điển cố, từ ngữ, hình ảnh là đã góp phần quan trọng vào
việc cảm và hiểu, thưởng thức bài thơ. Việc giải đúng sẽ làm cho lời bình chính
xác, thỏa đáng chứ không rơi vào bình tán chủ quan.
Xin dẫn ra vài ví dụ mà chúng tôi tâm đắc với người làm sách.
- Bàn lại với
các cụ Đào Phương Bình và Nam Trân việc dịch thơ thành máu giặc hay máu người,
Vũ Bình Lục viết : “ Trộm nghĩ, cụ Đào và Nam Trân, có lẽ chưa chuyển tải được
đầy đủ tình ý của tác giả ở hai câu kết này. Trần Minh Tông viết “ tưởng rằng
máu người chết trận vẫn chưa khô”, nghĩa là máu giặc xâm lăng như còn đỏ ngầu
trên dòng sông Bạch Đằng, và cả máu của những anh hùng hữu danh và vô danh con
dân nước Đại Việt ta nữa chứ! Máu ta, máu giặc cùng hòa vào dòng sông, đều cùng
là máu người cả, bởi “ máu người không phải
nước lã”. Những chiến binh phía Nguyên Mông,
chỉ là những nông dân vô tội, bị ép buộc phải cầm vũ khí, phải chết một cách vô
nghĩa vì quyền lợi và tham vọng bẩn thỉu của bọn cầm quyền ngạo mạn, sao chẳng
đáng thương? Nên chi vua Trần Minh Tông mới viết là “ máu người chết trận” (
thác nghi chiến huyết), chứ không chỉ là “máu giặc”, đủ thấy một tấm lòng
thương người không biên giới, một minh triết nhân văn sâu rộng đến nhường nào!”
( trang 218 tập “Hồn Thiền trong thơ Lí- Trần”).
- Nhân bàn về sai lầm của vua Trần Minh Tông và sự ân
hận của nhà vua, Vũ Bình Lục biện giải : “ Bậc thánh nhân chưa hẳn là đã toàn
bích. Đến như Lê Lợi là vị vua anh hùng, nhưng ông ấy cũng phạm những sai lầm
nghiêm trọng, quá tin bọn xu thời hiểm độc, nên đã giết hại một số trung thần
khai quốc. Lại đến như vua Lê Thánh Tông, một vị vua sáng, anh hùng, có công lớn
với đất nước, cũng là người minh oan cho Nguyễn Trãi sau này. Minh oan cho Nguyễn
Trãi là sáng suốt rồi, nhưng không dám minh oan cho bà Nguyễn Thị Lộ, thì đó lại
là một sự thiếu trung thực. Cuối đời, Lê Thánh Tông cũng mắc sai lầm nghiêm trọng,
nghe sàm tấu mà giết hại mấy trung thần. Chả thấy các vị vua ấy có lời hối hận
nào được ghi vào sử sách hay văn chương cả. Thế mà thiên hạ vẫn hết lời ca ngợi
Lê Lợi, Lê Thánh Tông, là bởi vì người ta nhìn thấy rừng, chứ không chỉ nhìn
vào cây, không chỉ biết có cây vậy!” ( sách
đã dẫn trang
220).
- Nhân chữ Thẹn trong bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, tác giả bình “ Đó chính là sự thẹn
thùng có liêm sỉ của một nhân cách lớn, muốn vươn tới đỉnh cao của người quân tử
chính danh. Thơ của ông cha ta thời trung đại, cũng thấy thể hiện không ít chữ
thẹn thùng, ví như Chu
Văn An, ví như Nguyễn Trãi, Nguyễn Thiên Tích,
Lý Tử Tấn, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, rồi cả Nguyễn Khuyến chẳng hạn…Thẹn thùng được
thể hiện như một uyển ngữ, vừa là tâm trạng, vừa là thái độ và trong đó ngầm
chuyển tải thông điệp về ý chí của con người cá nhân ở những cấp độ và màu sắc
khác nhau” ( sách đã dẫn trang 257-258).
- Vũ Bình Lục đã tranh luận nhẹ nhàng với các tác giả
sách “ thơ văn Lý Trần, tập III “ nếu dịch Oanh
hoa là mùa xuân, không sai, nhưng mà lại không ăn nhập với câu cuối. Chả lẽ
Mùa
xuân lại làm rối nắng mai, tức nắng xuân hay sao? […] Chúng tôi dịch
ra thơ : Oanh hoa hưng phế chẳng màng/ Vô
tư đùa dỡn với chàng nắng mai là có thể chuyển tải đúng tinh thần nguyên
tác chăng? “ ( sách đã dẫn trang 321).
Tất nhiên, như đã nói, viết
về thơ chữ Hán, chữ Nôm của tiền nhân, ngay đến các bậc túc nho cũng còn có khi
có lỗi, huống hồ một người chỉ được đào tạo để dạy Ngữ văn bậc Trung học, chỉ tự
học, tự đào tạo mà trưởng thành. Chắc chắn trong hàng ngàn trang bình giải thơ
cổ tác giả Vũ Bình Lục khó tránh khỏi có sơ suất, khiếm khuyết. Nhưng bỏ công sức, thời gian và cả tiền bạc nữa để tìm hiểu thơ của
tiền nhân và viết những cuốn sách độc
đáo như thế, quả là một việc đáng ghi nhận và biểu dương, khích lệ. Viết những
dòng này, chúng tôi cũng muốn bày tỏ sự khâm phục, ngưỡng mộ đối với sức lao động
và sáng tạo to lớn của người bạn đồng tuế, đồng nghiệp.
Hà Nội, tháng 3/2018
Bài đăng trên Quân Đội Nhân Dân cuối tuần, số 1180 ngày 12/8/2018. Đây là bản gốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét