THƠ VỀ RƯỢU HAY
NỖI BUỒN RIÊNG MÌNH VÀ NỖI BUỒN NHÂN THẾ CỦA NHÀ THƠ ĐẶNG XUÂN
XUYẾN? - Nguyễn Bàng
Tác giả Nguyễn
Bàng
Tuần trước, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến gửi cho tôi chùm thơ về
rượu của anh và bảo để tôi đọc cho vui. Nhưng vui sao được khi mà cả chùm 10
bài thơ đều thấm đẫm một nỗi buồn: Nỗi buồn riêng mình của thi nhân và nỗi buồn
vì nhân tình thế thái.
Người ta thường nói “Trà
tam tửu tứ", nghĩa đại chúng nhất là “Uống trà không nên quá 3 người, mới thưởng thức hết cái thú vị của nó.
Còn uống rượu phải từ 4 người trở lên mới vui, mới náo nhiệt”. Nhưng trong
10 cuộc rượu của Đặng Xuân Xuyến khồng hề thấy có một cuộc rượu bốn người nào
mà chỉ thấy toàn những cuộc rượu một mình nhà thơ hay những cuộc rượu có thêm
một người nữa là hai. Và cả chùm 10 bài Thơ
Về Rượu thì có tới quá nửa số bài là độc ẩm.
Trước hết là bài Một tôi
với lời đề tặng cháu Đặng Hải. Bài thơ chỉ có 6 câu nhưng cả 6 câu đều bắt đầu
bằng từ “Một”:
Một chai
Một chén
Một tôi thôi
Một đêm gió
quẩn chỗ tôi ngồi
Một bàn tay
lạnh quờ vai lạnh
Một tiếng
thở dài tôi với tôi!
Chai rượu chỉ có một, chén rượu cũng chỉ có một. Chai rượu
có một thì không nói làm gì vì có thể không là chai bé mà là chai vừa hay chai
to đong đầy rượu để uống. Nhưng chén rượu chỉ có một thì lại khác. Bởi lẽ bộ
chén uống rượu thường với 4 chiếc, 8 chiếc hay 12 chiếc hoặc nhiều hơn, nhưng
đều là số chẵn vì người Á Đông vốn kỵ số lẻ, không đủ đôi đủ cặp. Câu thơ “Một chén” vì người uống rượu không có
ai khác ngoài “Một tôi thôi”. Độc ẩm, uống rượu một mình. Đã cô đơn như thế,
bối cảnh không gian và thời gian lại là:
Một đêm gió
quẩn chỗ tôi ngồi
Một đêm, một làn gió cứ mãi chuyển quanh một điểm, một phạm
vi hẹp là cái chỗ tôi ngồi nhỏ bé.
Thi nhân đã cô đơn lại thêm làn gió cũng cô đơn và cái chỗ
ngồi cũng lẻ loi nên không khí bao quanh lạnh lùng là không thể khác.
Vì vậy, nhà thơ muốn tìm một ai đó để uống cùng nhưng buồn
thay lại chỉ là:
Một bàn tay
lạnh quờ vai lạnh
Bàn tay của mình quờ tìm lên vai của mình bởi có ai đâu ngoài
một chai, một chén, một mình tôi. Bàn tay lạnh và bờ vai cũng lạnh làm bật lên:
Một tiếng
thở dài tôi với tôi!
Tôi với tôi, không có ai chia sẻ.
Bài thơ ngắn mà giàu cảm xúc. Ngoài lối điệp liên tiếp tiếng
một ở đầu câu toàn bài thơ, tác giả còn khéo dùng các câu thơ dài dần từ 2
tiếng đến 3 tiếng trong ba câu đầu diễn tả sự cô đơn rồi chuyển sang 3 câu 7
tiếng để kết thúc bằng một hơi thở dài buồn bã. Nhà thơ không nói thêm gì ngoài
6 câu thơ nhưng người đọc đều hiểu, còn hai câu nữa, bẽ bàng, xót xa cho thân
phận của mình nhưng Đặng Xuân Xuyến không viết ra bởi thi hào dân tộc Nguyễn Du
đã nói hộ nàng Kiều từ 200 năm trước:
Khi tỉnh
rượu lúc tàn canh,
Giật mình
mình lại thương mình xót xa.
Rượu say là cuộc độc
ẩm của nhà thơ dưới ánh trăng nên không lạnh lẽo lắm, vì vậy mà tinh thần có
phần phấn khích:
Ừ này thì
rượu. Ừ thì say
Ừ rượu tri
âm ủ lâu ngày
Ta uống đêm
nay cho thỏa thích
Cho trời
cùng đất ngất ngưởng say.
Thế rồi say trong men tình chiu chắt, say trong rượu ngọt
đào thơm và say trong lời hứa với bạn nào đấy, nhà thơ không cần đoái hoài tới
chú Cuội từ nơi cung Quế xuống khẩn khoản mời lên chơi:
Ta chẳng ghé
đâu. Ta ở đây
Sóng sánh
mềm môi chén rượu đầy.
Thôi Cuội về
đi ta chỉ muốn
Đêm nay thỏa
thích ta được say.
Bài thơ là một tưởng tượng đẹp, phóng túng và táo bạo nhưng
xét cho cùng cũng vì cô đơn quá nên tưởng tượng hão huyền thế thôi, giống như
thi bá Tản Đà thế kỷ trước cũng vì buồn nơi trần thế nên ngẩng đầu tâm sự với
chị Hằng vào một đêm thu rồi thể hiện rõ nguyện vọng của mình:
Cung quế đã
ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin
chị nhắc lên chơi
Một mộng tưởng lên cung trăng bầu bạn với chị Hằng của Tản
Đà hay mộng tưởng chú Cuội trên cung Quảng xuống mời mình lên chơi của Đặng
Xuân Xuyến, xét cho cùng đều là muốn thoát ly cõi trần quá buồn chán.
Tiệc Rượu
Trong Mơ
cũng là một cuộc độc ẩm diễn tả tâm trạng muốn thoát cái “Một tôi” đơn côi bằng cách để trí tưởng tượng hiện lên một thằng
bạn đối tửu trong mơ. Cuộc đối tửu đã đến hồi kết:
Dốc ngược
chai
Chắt thêm
vài giọt rượu
Cạn ly này
Mai mỗi đứa một
nơi
Cả hai đều đã say nên cứ mày rót, tao rót, khề khà nhấp môi
rồi kể lể tình cảnh ngày mai chia ly mỗi thằng mỗi ngả, mày tao đều chung kiếp
không nhà nhưng rồi sẽ:
Tao xa lạ
Cõi trần đày
đọa
Mày xa hoa
Tiên cảnh
phiêu bồng...
Và họ cứ cạn nhé, cạn nhé chưa biết cuộc rượu tàn khi nào.
Bài thơ tưởng như mình đã có bạn cùng uống rượu. Nhưng than ôi, đó chỉ là một
cái bóng người trong mơ.
Men Đắng cũng là bữa
rượu một mình không buồn nhưng lại đầy cay đắng vì một nghĩa vợ tình chồng đã
tan vỡ, từ mười lăm năm trước về trong hơi men hôm nay, cũng là men rượu năm
đó, cái men mà:
Chót nhấp
môi ta trượt bước xuống bùn
Cho nên tay nâng chén mà trong lòng vẫn cảm thấy:
Thon thót sợ
vô tình gặp lại.
Tự gật đầu với mình “Ừ
ly nữa”, thêm rượu để cố quên đi nhưng:
Cạn ly này
có quên được chuyện xưa?
Đau thương
đấy đến ngày nào lành sẹo?
Và rồi chuyện xưa cứ hiện về rõ mồn một:
Ừ thì cứ
trách ta bạc bẽo
Cứ rêu rao
ta ân ái hững hờ
Nhưng đâu phải thế, mà chỉ vì:
Quá thật thà
ta ra kẻ ngu ngơ
Ngớ ngẩn
cược đời mình nơi kẻ chợ.
Người đã như yêu tinh, như hồ ly mà lại thêm trời cũng ăn ở
bất công:
Trời cao xa
dung dưỡng lũ yêu hồ
Nên ta đành phải:
Cố vẫy vùng
thoát xa khỏi chốn nhơ
Ta chết lặng
nửa đời không phân tỏ.
Men Đắng đầy bi phẫn vì không biết phân tỏ cùng ai, tưởng
như sẽ đẩy nhà thơ vào miền bế tắc. Nhưng may thay vẫn có một chút ánh sáng là
khi cuối cuộc độc ẩm, nhà thơ đã nhận ra chân tướng không tốt đẹp gì của người
đã đi qua đời mình nên tự gật đầu thêm cho mình ly nữa, ly nữa để quên đi cái
bóng tà xưa và hướng tới một bình minh đang đợi:
Quên bóng tà
lẩn khuất phía song thưa
Ta cạn chén
đón bình minh trước cửa.
Bữa rượu một mình cuối cùng trong chùm Thơ Về Rượu là bài thơ Chết. Bài thơ chỉ có 4 câu nghe như tiếng
nghẹn nấc khi nhà thơ nhấp chén rượu buồn cay đắng tiễn người mình yêu đi lấy
chồng và thấy trái tim mình đang dần chết:
Kể từ trăng
tàn ấy
Ta chết dần
ai hay.
Bài thơ khiến nhiều người nhớ tới Chuyện Tình Buồn của nhà thơ Phạm Văn Bình đã được nhạc sĩ Phạm Duy
phổ nhạc:
Ngày nhà em
pháo nổ
Tâm hồn anh
nhuốm máu
Ôi nhát chém
hư vô
Ôi nhát chém
hư vô.
Chuyện Tình
Buồn
chứ không phải Chết nhưng cũng nhuốm
máu đau thương bởi những nhát chém hư vô!
Thế Gian Say gọi là
cuộc rượu một người cũng được hay cuộc rượu hai người cũng được. Một người vì
bài thơ là lời của Đặng Xuân Xuyến nói về thế gian say. Hai người vì bài thơ có
đề tặng nhà thơ Hoàng Xuân Hoạ khiến ta có thể hiểu là hai thi nhân đã đối ẩm
với nhau rồi phiếm đàm về thế gian say và sau cuộc rượu thì nhà thơ họ Đặng ghi
lại gửi tặng nhà thơ họ Hoàng. Dù hiểu cách nào thì Thế Gian Say cũng là một
phiếm đàm về cái say rượu của người đời:
Thế gian say
đòi đập chén trở cờ
Thế gian
cười.
Thế gian
khóc.
Thế gian mơ
Người đời say đòi “đập
chén trở cờ” rồi cười, rồi khóc, rồi mơ, rồi thêm nữa:
Ngật ngưỡng
bước.
Khành khạch
cười.
Chửi cha
thiên hạ dở!
Tôi từng nghe, cũng chính người đời đã phân ra ba loại say
lớn trong thế gian: Loại thứ nhất, say như khỉ, hết “nhảy múa rồi đến ca hát hay chửi bới”, loại thứ hai, say như lợn, "nặng nề, trì trệ và muốn ngủ",
loại thứ ba, say như dê, "không có
đầu óc, nhưng dâm đãng".
Thế gian say trong thơ Đặng Xuân Xuyến thuộc loại thứ nhất,
say rồi chửi cha thiên hạ. Thế thì có sao, thưa hai nhà thơ Đặng xuân Xuyến và
Hoàng Xuân Hoạ? Chí Phèo kia, khi say hắn đã chửi tuốt luốt đấy thôi: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ
rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà
nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức
mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại...”
Nhưng Chí Phèo chửi cả làng Vũ Đại đã thấm gì so với Trương
Tửu và bạn ông khi say:
Chửi Đông,
chửi Tây chửi tất cả
Hình như hai nhà thơ họ Đặng và họ Hoàng rất tương đắc khi
chê “Thế gian say đòi đập chén trở cờ”.
Tôi tra từ điển “trở cờ” nhưng không
thấy mà chỉ có “trở” được định nghĩa “Đảo ngược vị trí đầu thành đuôi, trên thành
dưới, trái thành phải hoặc quay ngược lại đi hướng khác”. Dù thế nào trở cờ
cũng là xấu. Cái chén nó vừa đựng rượu cho mình uống giờ say đòi đập nó, không
xấu thì là gì?
Nhưng ở đời thiếu gì người không say mà đã trở cờ trong
những việc trọng đại, như ông Tổng Bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam đã phát biểu: “Có người công khai bày tỏ ý kiến trái với
Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, làm trái nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, thậm chí
có người "sám hối", "trở cờ"; tình trạng tham nhũng, quan
liêu, xa dân, tổ chức không chặt chẽ, nhiều nguyên tắc của Đảng bị vi phạm”
Trên thế giới, từ lâu ông nhà thơ Aragon người Pháp khi theo
đảng Cộng Sản Pháp đã viết:
Đảng đã cho
tôi sáng mắt sáng lòng
Để ca ngợi cái tổ chức mà mình có mặt, còn câu thơ nào hay
hơn câu ấy?
Nhưng rồi, như rất nhiều người cùng chí hướng của mình trong
thế kỷ XX, sau đó, niềm tin của ông đã thay đổi. Và ông bị gọi là trở cờ.
Những người như ông Tổng bí thư nói hay như ông Aragon, trở
cờ chứ không phải hối hận. Nhưng họ vẫn đáng trọng hơn những kẻ không trở cờ mà
trung thành, nhất quán một cách mù quáng.
Bài thơ Thế Gian Say
hay nhất ở câu cuối:
Rượu ba xu.
Thế gian hóa thằng rồ!
Ngày xưa, tiền chi tiêu trong dân chúng là tiền gián, với
một quan là 360 đồng, dưới đồng là hào, dưới hào là xu rồi đến chinh và kẽm. Ca
dao Việt Nam có nhắc đến người nội trợ đi chợ:
Một quan
tiền tốt mang đi
Nàng mua
những gì mà tính chẳng ra
Thoạt tiên
mua ba tiền gà...
Ngày nay, đồng tiền Việt Nam được lưu hành trong dân chúng,
thấp nhất là tờ giấy bạc một nghìn đồng. Nhà thơ Nguyễn Khôi có kể về vợ mình
đi chợ:
Nửa triệu
tiền tốt mang đi
Em mua những
gì?- máy tính thẩm tra
Xem vậy, rượu ba xu thời nào cũng là thứ rượu rẻ tiền nhất.
Nên cái đáng cười người đời là đã phải uống cái thứ rượu mạt
hạng ấy mà không biết mình là ai lại đòi đập chén trở cờ rồi cười, rồi khóc,
rồi mơ và chửi thiên hạ để chính thế gian gọi là thằng rồ. Nhưng trong cái đáng
chê cười ấy cũng nên có chút lòng thương xót vì họ toàn là dân nghèo khốn khó.
Những kẻ giàu sang chơi những loại rượu Sake, Shochu, Whisky, Chivas… dẫu có
say điên đảo vẫn có kẻ hầu người hạ và có ai dám bảo chúng hoá thằng rồ đâu.
Bởi ở đời này, “ông” nào nói to, “ông” nào nhiều tiền thì “ông” ấy đúng!
Vả lại:
Thế gian còn
dại chưa khôn
Sống mặc áo
rách chết chôn áo lành
Vậy phiếm đàm về thế gian say thì cứ phiếm nhưng đừng quá
chê trách họ.
Những cuộc rượu hai người trong chùm thơ về rượu của Đặng
Xuân Xuân Xuyến hầu hết thấm đẫm nỗi buồn vì nhân tình thế thái.
Hai bài thơ Quan
Trường và Bạn Quan đều diễn đạt
tâm trạng nhà thơ khi uống rượu với hai người bạn làm quan. Thói thường khi có
bạn làm quan người ta thường hãnh diện và coi đó là một may mắn và một diễm
phúc. Nếu bạn là quan lãnh đạo cấp cao, người ta còn cố chụp chung một bức ảnh
bắt quàng làm họ rồi treo giữa sảnh khách để loè khoe thiên hạ. Đặng Xuân
Xuyến, ít nhất có hai bạn quan nhưng anh không có cái ý khoe khoang đó .
Thằng bạn trong Quan
Trường là một quan chức to vừa “ngã
ngựa” vì bị bọn đồng liêu ganh ghét không cùng dòng chảy với chúng:
Đục kín dòng
mày lại cố gượng trong
Chúng nó đập
bởi mày không chịu hỏng
Vì thế, nhà thơ an ủi bạn:
Nào, cứ
uống, đếch gì mày phải ngại
Làm “quan
to” ngã ngựa cũng chả hèn
Thiên hạ
cười. Thây kệ thiên hạ soi
Mày giả xỉn
để đời thôi khốn nạn.
Rồi chân tình khuyên bạn:
Ừ. Thế nhé.
Lấy gia đình làm trọng
Cứ vui đi,
mặc thiên hạ vào tròng
Tiếc làm gì
mấy thứ của phù du
Thiên trả
Địa, đếch gì mày cay cú.
Bài thơ cho ta thấy, tuy không làm quan nhưng Đặng Xuân
Xuyến biết rất rõ chốn quan trường. Nơi mê cung bí hiểm ấy luôn có những đám
mây đen âm mưu vần vũ, sóng gió lật đổ thanh toán nhau bất kì nổi lên gây ra
không biết bao nhiêu thảm kịch. Ở đấy đầy dẫy những kẻ mặt dày vô sỉ, đầy quyền
mưu quyền biến, đổi trắng thay đen, gian hùng, giả nhân giả nghĩa…Vì thế nhà
thơ gọi chốn quan trường là nơi thiên hạ đú, thiên hạ cù và văng thẳng câu chửi
vào cái thiên hạ ấy:
Nào. Uống
nhé! Kệ cha thiên hạ đú
Nào. Cứ say!
Mặc mẹ thiên hạ cù
Rồi mời rượu bạn để:
Tao với mày
trận nữa ngoắc cần câu
Cho trôi
tuột trò nhố nhăng thế sự.
Thái độ của nhà thơ là rất thẳng thắn coi khinh chốn quan
trường và cảm thông sâu sắc với bạn mình, tuy làm quan nhưng vẫn còn chút thanh
sạch và chưa bị tha hoá nên đã bị cả một lũ quan trường, chúng nó đập.
Người bạn quan thứ hai của nhà thơ trong bài Bạn Quan là một quan chức đang tại vị,
về quê mở tiệc tẩy trần, khách mời là nhà thơ bạn cũ. Thằng bạn quan này thì
khác thằng bạn quan bị ngã ngựa, bởi thế nhà thơ đã mượn rượu giả say để có cớ
vạch trần bộ mặt thật của thằng bạn cũ lâu ngày gặp lại:
Mày làm quan
chắc kiếm bộn tiền
Chức ấy rẻ
mà sinh lắm lãi
Mày là thằng đã bỏ tiền ra để chạy chức, xong rồi thì phải
thu hồi vốn, thu hồi xong phải làm lãi bằng cách vơ vét, ăn không từ thứ gì của
dân.
Thêm nữa, cái tài học và tâm địa của mày, hai ta đâu có lạ
gì nhau:
Mày học ngu
nhưng thủ đoạn tài
Tao học giỏi
nhưng mù thủ đoạn
Tưởng rằng nói trắng phớ ra như thế thì mình sẽ hả lòng hả
dạ, bớt đi bao đau buồn thua thiệt trong cõi đời đen bạc. Còn nó, thằng bạn
quan sẽ mất mặt vì nhục nhã.
Nhưng cái hay ở bài thơ là thằng bạn lại không thấy như thế.
Mà y đợi:
Rượu tới tầm
Mày ghé tai
tao
Nói thật nhỏ
Căng tai mới
rõ
Ơ hay, sao chỉ có hai người bạn uống rượu tẩy trần mà y lại
phải “ghé tai”, “nói thật nhỏ” đến nỗi bạn phải “căng
tai mới rõ”. Phải chăng quen sống ở chốn quan trường, nơi mê cung bí hiểm
đã thành động hình trong y, lúc nào cũng phải giấu giấu diếm diếm những cái gọi
là sự thực. Nay chỉ có y và thằng bạn mà y vẫn chửi là “Quá nửa đời mãi chửa hết ngu…” thì nỗi sợ ấy không còn nữa nên y
mới có đủ dũng khí để nói ra cái sự thực ấy:
“Làm người
khó
Làm quan
càng khó
Chốn quan
trường chó, vịt giống nhau…”
“Quan càng
lớn, chữ nhân càng nhỏ…”
“La liếm
quen rồi nào biết bẩn nhơ!”
Đúng là y nói rất thật nhưng cũng đúng y là một thằng học
ngu vì y chưa đọc hết câu: “Làm người là
khó, làm người xã hội chủ nghĩa còn khó hơn nhiều”
Vẫn đang đà giả tỉnh giả say, nhà thơ làm ra bộ ngớ ngơ:
Khen các
quan vì dân vì nước
Ai ngờ thằng bạn quan cũng đang đà được nói thật nên đáp lại
cũng rất thật:
Đời đã chó
Quan trường
càng chó
Tuy y nói thật thế nhưng y vẫn đang làm quan. Bữa tiệc tẩy
trần hôm nay là tiệc của nhà quan được mua sắm bởi những đồng tiền y đã “Ăn của dân không từ cái gì”, đã “La liếm quen rồi nào biết bẩn nhơ”. Vì
vậy, nhà thơ cần phải nói thẳng nốt với y:
Rượu mày mời
Tao uống khó
trôi
Thịt mày gắp
Tao nhai khó
nuốt
Bạn Quan là một bài
thơ hay, một cuộc rượu hai người đầy kịch tính, cả hai đều mượn hơi men để nói
thật lòng mình, rất đúng với câu “Lời say
sưa mới là câu chân tình” (Trần Huyền Trân) cho ta thấy bộ mặt thật xấu xa
bỉ ổi của bọn quan trường trong xã hội hiện nay.
Đời Khát với lời đề
tặng nghệ sĩ Võ Hoài Nam là cuộc rượu của đôi bạn, một nhà thơ và một nghệ sĩ.
Hiển nhiên là rượu phải ngon và quý:
Rượu tình
đời men ủ nhiều năm
Họ khát gặp nhau và khát cả rượu nên cuộc đối tửu là một
trận càn khôn túy lúy:
Này thì
khát!
Uống cho đời
đỡ khát
Rượu tình
đời men ủ nhiều năm
Khát chất
chồng
dồn nén
tháng năm
Ta đốt cạn
cái đong đời cay đắng
Họ liên tiếp chuốc rượu mời giục nhau trong ba khổ thơ liên
tiếp khổ nào cũng mở đầu bằng hai câu:
Uống!
Thì uống!...
Uống để cho hết u buồn, cho Nhật Nguyệt hửng nắng, cho lòng
ta và lòng bạn không hổ thẹn giữa một thế gian “sấp ngửa trắng đen”, và để:
Rượu tri âm
thêm vững mạnh bước đường!
Đúng là thi nhân, nghệ sĩ say thì chữ nghĩa tràn chiếu rượu
Thân phận nhà thơ Đặng Xuân Xuyến thì bạn đọc đều đã biết,
chỉ xin vài nét về tài tử Võ Hoài Nam để mọi người hiểu thêm về kèo rượu của
đôi bạn.
Bố mẹ Võ Hoài Nam ly hôn khi anh mới lên hai, kể từ đó, Võ
Hoài Nam sống mà như một đứa trẻ không có gia đình. "Đầu đường, xó chợ đã dạy tôi nên người”. Đấy là lời dũng cảm
anh tự nói ra. Trở thành diễn viên chính trong series phim "Cảnh sát hình sự",
Võ Hoài Nam được coi là một trong những tài tử hàng đầu của điện ảnh phía Bắc.
Khi đang ở đỉnh cao của sự nghiệp, anh bất ngờ rời xa màn ảnh cùng vợ mở quán
ăn để có đủ cơm áo chăm lo cho đàn con 4 đứa..
Võ Hoài Nam tâm sự: "Đối
với tôi, tiền không phải là tất cả, tiền không đánh đổi được tình nghĩa, hạnh
phúc gia đình. Nghĩ vậy nên tôi dừng lại, không dấn thêm một bước nữa".
Thật không hổ thẹn khi không ham tiền và ham sự nổi danh dưới ánh đèn sân khấu.
Đúng như câu thơ Đặng Xuân Xuyến:
Ta như bạn
sống một đời không thẹn
Say Yêu là cuộc
rượu của nhà thơ với người tình. Một cuộc rượu đã đến hồi rượu ngọt, môi mềm và
“Xem trong âu yếm có chiều lả lơi”:
Nào nâng
chén cho sầu sầu rũ bỏ
Trút áo xiêm
cho đêm bớt ngại ngần
Đây rượu
nồng, men ủ đã nhiều năm
E ngại thế...
Làm sao ta chẳng giận
Và rồi mặc dù đêm lạnh lắm nhưng đã say yêu, đã trút áo xiêm
rồi thì cái gì đến sẽ phài đến:
Đêm phập
phồng, ngực nõn hứng trăng non
Môi đón lưỡi
uống hương tình bất tận.
Trong thi ca Việt Nam, ta thấy nhiều bài thơ hay về cuộc rượu
của nhà thơ với người đẹp như trong thơ Lưu Trọng Lư, Vũ Hoàng Chương, Xuân
Diệu…Nhưng hầu hết những người đẹp đó đều là gái giang hồ, gái nhảy hay kỹ nữ:
Tiếng gà lại
rộn trong thôn...
Khoan đừng
tơ tưởng vợ con ở nhà
Giờ này còn
của đôi ta,
Giang hồ rượu
ấy còn pha lệ người,
Ô sao rượu
chẳng kề môi,
Lời đâu kiều
diễm cho nguôi lòng chàng?
(Lưu Trọng Lư - Giang hồ)
Say đi em, say đi em
Say cho lơi
lả ánh đèn
Cho cung bậc
ngả nghiêng điên rồ xác thịt
Rượu, rượu
nữa, và quên, quên hết...
(Vũ Hoàng Chương -
Say đi em)
Khách ngồi lại cùng em! Đây gối lả,
Tay em đây, mời khách ngả đầu say;
Đây rượu
nồng. Và hồn của em đây,
Em cung kính
đặt dưới chân hoàng tử.
(Xuân Diệu - Lời kỹ nữ)
Người đẹp trong Say
Yêu của Đặng Xuân Xuyến không phải là gái giang hồ, gái nhẩy hay kỹ nữ
nhưng tiếc thay cũng chỉ là người con gái chẳng cần thề non hẹn biển, nguyện
ước trăm năm “như chim chắp cánh như cây
liền cành” mà chỉ say yêu một đêm, một lần:
Yêu thương
nhé.
Một lần thôi.
Là đủ
Ta đâu cần
gian díu giữa nhân gian...
Trong bài thơ “Gửi Trương Tửu” mà khi soạn Thi
nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã đưa bài thơ này vào sách và cho rằng: Đây "mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ”,
có câu:
Cạn rượu rồi
thơ mới véo von
Có thể nói nhờ Rượu mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã cảm khái
nên chùm Thơ Về Rượu khá hay và độc
đáo. Chùm thơ 10 bài với 10 cuộc rượu khác nhau, lúc độc ẩm, lúc nhị ẩm trong
những bối cảnh khác nhau đã diễn tả khá đậm nét nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn
chung về nhân thế của nhà thơ, giúp người yêu thơ hiểu thêm về thi nhân và hiểu
thêm cái cõi đời sấp ngửa đen bạc này.
Nhìn bộ dạng thư sinh của Đặng Xuân Xuyến, tôi nghĩ nhà thơ
không phải là người hay rượu mà chỉ đáng phụ chén cho cụ Tam nguyên Yên Đổ, nếu
cụ còn sống. Mà cụ Tam thì:
Rượu tiếng
rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba
chén đã say nhè
Phải
chăng Đặng Xuân Xuyến đã mượn rượu và có hẳn một chùm Thơ Về Rượu hôm nay để
xóa nhòe đi tất, để ngự lên hiện thực mà ngạo chơi với Thế sự thăng trầm bao
tục lụy này?!
Sài Gòn, cuối tháng 07.2018
NGUYỄN
BÀNG
Địa chỉ: Thành phố Sài Gòn
Email: bnguyen37@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét