NGUYỄN TRỌNG TẠO NEO HỒN THƠ VÀO “BIỂN MẶN”
VŨ NHO
Chúng
ta đã có nhiều, rất nhiều các tác phẩm văn xuôi, thơ và trường ca viết
về chiến tranh. Nhưng đề tài chiến tranh vẫn không bao giờ cũ. Trường ca
“Biển mặn” của Nguyễn Trọng Tạo vừa xuất bản, như đang làm nóng lên đề
tài này.
Mấy câu thơ trong bài thơ “Những người
lính đi qua thành phố” được lồng vào trường ca này có lẽ giúp chúng ta
hiểu vì sao Nguyễn Trọng Tạo viết trường ca “Biển mặn”:
Người lính đi, qua mấy cuộc chiến tranh
Nói về súng dẫu nhiều – chưa nhàm cũ
Nói mất mát, hi sinh dẫu cạn lời – chưa đủ
Nói về súng dẫu nhiều – chưa nhàm cũ
Nói mất mát, hi sinh dẫu cạn lời – chưa đủ
Khi đọc tập trường ca “Biển mặn”, tự
nhiên tôi có ý so sánh với trường ca “Biển” của Hữu Thỉnh. Hai người
từng là lính. Hai người cùng viết về biển. Trường ca của Hữu Thỉnh viết
1981, hoàn thành năm 1994. Còn trường ca của Nguyễn Trọng Tạo, theo anh
cho biết thì đã ấp ủ từ lâu nhưng đến giữa năm 2015, anh mới khởi bút và
hoàn thành sau hơn một tháng dồn cả tâm hồn và trí tuệ cho cả nghìn câu
thơ về biển. Nghĩa là trường ca “Biển mặn” được viết khi vấn đề biển
đảo của ta, vấn đề biển Đông đang dậy sóng. So sánh thì thấy: Hai nhà
thơ, hai cách tiếp cận biển. Và dù viết sau, nhưng Nguyễn Trọng Tạo đã
có một cách riêng để triển khai trường ca của mình. Chúng ta sẽ thấy đó
là một cách triển khai thông minh, độc đáo và sáng tạo.
Trường ca “Biển mặn” của Nguyễn Trọng Tạo gồm 5 chương và phần Vĩ thanh: Mặn hơn muối; Những cột mốc sống; Lính biển; Hải chiến; Đảo bão; và Vĩ thanh.
Bản trường ca này có chủ đề
khái quát “mặn hơn muối” để nói về “Biển mặn”. Trên trục hoành không
gian, biển trải từ Móng Cái đến Hà Tiên, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa và các đảo khác. Đồng thời trên trục tung lịch sử, tác giả
triển khai “Những cột mốc sống” từ thời xưa đến bây giờ. Cột mốc chủ
quyền quốc gia trên đất liền là những cột xi măng cốt thép, có tọa độ rõ
ràng. Còn trên biển cả, chúng ta đã có những “cột mốc sống” khẳng định
chủ quyền ở Trường Sa và ở Hoàng Sa.
Bốn thế kỷ đi qua cột mốc giữa trùng dương
Những Hải đội Hoàng Sa nhập hồn vào sóng nước
Nhập vào đá san hô
Nhập vào Tổ quốc
Những Hải đội Hoàng Sa nhập hồn vào sóng nước
Nhập vào đá san hô
Nhập vào Tổ quốc
Vẫn còn đến hôm nay tục tế lễ sân đình
Tế lễ khao quân
Tế sống lính lên đường
Những hình nộm chết thay cho người lính
Cầu an bình cho mọi chuyến hành hương.
Tế lễ khao quân
Tế sống lính lên đường
Những hình nộm chết thay cho người lính
Cầu an bình cho mọi chuyến hành hương.
Về lịch sử nối tiếp các thế hệ, trong
chương “Lính biển”, tác giả đã viết về người lính hôm nay, con trai của
người lính năm xưa trong bài thơ “Những người lính đi qua thành phố”.
Thật khái quát và cô đọng:
Cha đã lính. Bây giờ con lại lính
Những thế hệ nối nhau đi giữ nước non nhà
Xưa cha Trường Sơn Rừng
Nay con Trường Sơn Biển
Những hòn đảo dựng vòng cung phòng tuyến
Dựng tin yêu từ phía mặt trời lên,
Những thế hệ nối nhau đi giữ nước non nhà
Xưa cha Trường Sơn Rừng
Nay con Trường Sơn Biển
Những hòn đảo dựng vòng cung phòng tuyến
Dựng tin yêu từ phía mặt trời lên,
Tiếp nối lịch sử “Hải đội Hoàng Sa” từ
thời nhà Nguyễn, tác giả dựng lên chương “Hải chiến” rất cụ thể, rất
“thời sự”. Ở đây không có lối nói bóng gió nào hết. Đánh nhau với bọn
cướp biển không phải chung chung như vẫn nghe là “tàu lạ”:
Bọn cướp biển là ai? Tôi đã nhìn rõ mặt
Chúng lén lút
Chúng ngang nhiên
Chúng hằm hằm
Chúng sằng sặc
Chúng ngụy trang áo mặc
Chúng trá hình dân đen
Chúng giả bạn, giả anh em
Giả tình, giả nghĩa
Chúng lén lút
Chúng ngang nhiên
Chúng hằm hằm
Chúng sằng sặc
Chúng ngụy trang áo mặc
Chúng trá hình dân đen
Chúng giả bạn, giả anh em
Giả tình, giả nghĩa
… Tanh tưởi ngoại ngữ quen
Nghìn năm nhai xác….
Nghìn năm nhai xác….
… Rồi một ngày họ thành quân xâm lược…
Một sự thật mà dân Việt và cả thế giới
đều biết. Đó chính là đội quân bành trướng Bắc Kinh xâm lược, họ đã đơn
phương gây ra cuộc chiến tranh dọc biên giới phía Bắc nước ta tháng 2
năm 1979. Họ cũng nhân danh “giúp bạn” mà quyết “Đánh trận này chiếm quần đảo Hoàng Sa”. Và cuộc hải chiến Hoàng Sa tháng 1 năm 1974 đã nổ ra không cân sức:
Tín hiệu hòa bình phát đi không thể nào xua đuổi
Những chiến hạm xâm lăng.
… Lửa đã cháy
Và biển xanh dâng sóng…
Những chiến hạm xâm lăng.
… Lửa đã cháy
Và biển xanh dâng sóng…
Có thể nói, toàn bộ bản trường ca, đặc
biệt hai chương II và IV đã thể hiện rõ tính chất bi tráng của cuộc
chiến khẳng định chủ quyền và tinh thần vệ quốc của chúng ta trên biển.
Lòng yêu nước như sóng biển uất nghẹn trào dâng:
– Tôi nghe sóng Hoàng Sa uất ức
Gầm vang
Tôi nghe hồn Hoàng Sa nghiêng bóng thuyền che chở
Các bạn thuyền xúm vào nhau trên con thuyền rách nát
Tiếng rên thành bản nhạc chiêu hồn
Gầm vang
Tôi nghe hồn Hoàng Sa nghiêng bóng thuyền che chở
Các bạn thuyền xúm vào nhau trên con thuyền rách nát
Tiếng rên thành bản nhạc chiêu hồn
– Những con tàu HQ không tiến được
Phải rút lui dưới hỏa lực quân thù
Tàu Nhật Tảo chìm dần trong lửa khói
Biển ôm vào lòng nức nở tiếng sóng ru…
Phải rút lui dưới hỏa lực quân thù
Tàu Nhật Tảo chìm dần trong lửa khói
Biển ôm vào lòng nức nở tiếng sóng ru…
Chương “Đảo bão” là chương khắc họa thêm
phẩm chất của người lính biển Việt Nam. Thật thú vị là trong khi nhà thơ
đồng đội Hữu Thỉnh viết về cơn bão giật người lính ra khỏi đảo, về sự
kiên cường của một người lính bơi trên chiếc phao thoi thóp, quyết trở
về đảo, cùng đồng đội xốc lại đội hình: “Tiếng lính gọi mịt mù bão cát/ Tiếng lính gọi từng giây khẩn thiết/ Đảo tìm nhau xếp lại đội hình”.
Nguyễn Trọng Tạo lại viết về tập thể những người lính vẫn vững vàng
trên đảo bão, như là biểu tượng của cột mốc chủ quyền thiêng liêng:
Bão rú gầm rách tã những tảng mây
Những người lính cởi áo ra che pháo
Những người lính ngã nhoài trong gió bão
Lại đứng lên. Gió lại giật ngã nhoài…[…]
Đảo vẫn đứng hiên ngang như đứng vậy từ xưa
Dáng người lính sáng lên cùng đá đảo
Những người lính đầu trần không áo
Lại đắp dày công sự của mình lên
Những người lính cởi áo ra che pháo
Những người lính ngã nhoài trong gió bão
Lại đứng lên. Gió lại giật ngã nhoài…[…]
Đảo vẫn đứng hiên ngang như đứng vậy từ xưa
Dáng người lính sáng lên cùng đá đảo
Những người lính đầu trần không áo
Lại đắp dày công sự của mình lên
Phần “Vĩ thanh” là một phần tương tự như
cái kết thúc có hậu trong truyện cổ dân gian. Chúng ta đã cắm mốc chủ
quyền bằng những “cột mốc sống”. Chúng ta có những người lính biển dầy
dạn chiến chinh. Chúng ta đã có những trận hải chiến ác liệt. Chúng ta
vẫn vững vàng trong bão tố biển khơi. Và những gì của ông cha ta để lại,
chúng ta phải giữ lấy bằng mọi giá. Và đảo đá đã thành quê:
Nghe tiếng gà gáy trưa trên ghềnh đá
Nghe tiếng bò gọi đêm thân thương quá
Tiếng chuông chùa rung động cả hoàng hôn
Tiếng lính hát ca, tiếng trẻ đến trường
Ríu rít bài đồng dao mới
Nghe tiếng bò gọi đêm thân thương quá
Tiếng chuông chùa rung động cả hoàng hôn
Tiếng lính hát ca, tiếng trẻ đến trường
Ríu rít bài đồng dao mới
“Nu na nu nống
Đánh trống phất cờ
Biển cả xa mờ
Có hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa
Tên gọi thiết tha
Trong lòng dân Việt”
Đánh trống phất cờ
Biển cả xa mờ
Có hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa
Tên gọi thiết tha
Trong lòng dân Việt”
Kết thúc trường ca là một sự thấu hiểu bằng con tim:
Biển nơi này mặn lắm
Những cuộc đời máu thắm đã thành hoa
Những cuộc đời máu thắm đã thành hoa
Rất nhân văn, và cũng rất trọn vẹn khi
“Điệp khúc tiếng sáo” luôn luôn trầm bổng khắp bản trường ca. Nó như vừa
gói lại mỗi chương, lại như vừa nhắc lại và mở ra dòng mạch phát triển
của chủ đề chính với một sắc thái mới mang tính phức điệu trong cấu trúc
âm nhạc:
Nhặt lên viên sỏi tuổi thơ
Ném ra biển cả nào ngờ sóng dâng
Mọc lên lớp lớp tầng tầng
Đảo chìm đảo nổi đá ngầm san hô
Những vùng biển đẹp như mơ
Trường Sa cát trắng Hoàng Sa cát vàng…
Ném ra biển cả nào ngờ sóng dâng
Mọc lên lớp lớp tầng tầng
Đảo chìm đảo nổi đá ngầm san hô
Những vùng biển đẹp như mơ
Trường Sa cát trắng Hoàng Sa cát vàng…
Nhặt lên hạt muối, thưa rằng:
Một phần biển mặn. Mấy phần máu xương…
Một phần biển mặn. Mấy phần máu xương…
Tôi đã đọc nhiều trường ca, nhiều tiểu
thuyết viết về sự hi sinh của chiến sĩ ta. Nhưng không thể nào không
rưng rưng khi đọc những câu thơ về sự hi sinh kiêu hãnh mà đau xót của
các chiến sĩ giữ đảo Gạc Ma:
Những người lính sát vào nhau một vòng tròn khép kín
Mặc pháo 100 li từ biển bắn vào
Các anh hóa thành sao
Các anh hóa thành cờ
Mỗi người lính một lá cờ Tổ quốc
Mặc pháo 100 li từ biển bắn vào
Các anh hóa thành sao
Các anh hóa thành cờ
Mỗi người lính một lá cờ Tổ quốc
Đó chính là tượng đài của sự hy sinh đã được dựng bằng thơ.
Cái mới mẻ và hấp dẫn của tập trường ca
này chính là bên cạnh những câu thơ được viết kĩ, trau chuốt, vừa có vẻ
thô mộc cường tráng, vừa tràn đầy cảm xúc và mang tính khái quát cao,
thì có những đoạn văn xuôi đậm đặc tư liệu lịch sử, thông tấn. Không chỉ
một đoạn mà nhiều đoạn từ sách của Lê Quý Đôn, từ sách sử triều Nguyễn,
và từ những trang báo, trang tin về Hoàng Sa, Gạc Ma… (Theo sức đọc còn
hạn chế của tôi, chưa có một trường ca nào làm như vậy!). Thế mà những
đoạn văn xuôi tư liệu ấy lại mang tới rất nhiều lượng thông tin tâm hồn.
Đó là cách mà Nguyễn Trọng Tạo đã làm cho dòng mạch trường ca trở nên
sinh động, có sức cuốn hút riêng.
Cuối cùng, chúng tôi muốn nói
tới những tìm tòi của tác giả Nguyễn Trọng Tạo trong bản trường ca này.
Các chương được liên hệ với nhau chặt chẽ theo chiều rộng không gian
Móng Cái, Bạch Long Vĩ, Vịnh Hạ Long, Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Lôn, Phú
Quốc. Và theo chiều dài lịch sử từ khi nhà Nguyễn lập Hải đội Hoàng Sa,
cho đến những trận hải chiến gần đây nhất. Tác giả đã sử dụng những thần
thoại, truyền thuyết về Con Rồng cháu Tiên, về Đảo là con trai đất
liền, Biển là tiên nữ; về việc ném đá thành các đảo, và cả những tục lệ “Tế lễ sân đình/ Tế lễ khao quân/ Tế sống lính lên đường”
trong nghi lễ dân gian. Nhân vật xưng tôi trong bản trường ca khi là
một người bình thường “ra khơi vào lộng”, nhưng khi lại hóa thành một
nạn nhân trên thuyền bị hải tặc ráp vây, hoặc thành “con thuyền bị đâm trên biển của mình/ Những xương sườn gãy nát”, khi khác thì “Tôi con thuyền gãy nát cột buồm” và như là trong thần thoại “Tôi mảnh ván tả tơi lại mọc thành cây/ Thành rừng xanh/ Thành cổ thụ/ Lại xẻ ván đóng thuyền”.
Tôi chính là người lính hải quân, có người cha đã viết bài thơ “Những
người lính đi qua thành phố”. Có khi tôi lại xưng anh với “em” trong một
khổ thơ, tự nó đã thành một bài thơ độc lập: “Bây giờ trên đảo tuần
tra/ Sau mưa, tôi lẫn chan hòa nắng lên/ Nắng như nắng nhớ đất liền/
Tôi như tôi chẳng xa em bao giờ/ Bởi tôi tin tự trong mơ/ Em là biển
biếc bãi bờ là tôi”. Nhân vật tôi vì thế mà đa dạng, đa thanh. Sử
dụng “điệp khúc tiếng sáo”, sử dụng những ghi chép trog sách vở, trong
bản tin. Sử dụng cả đồng dao mới (do Phạm Xuân Nguyên đặt lời). Sử dụng
bài thơ hay của mình đã viết về người lính. Tất cả đều được huy động có
chọn lọc, được sắp xếp cài đan chặt chẽ. Đó chính là độ chín trong nghề
nghiệp của người viết. Và điều cuối cùng là có nhiều câu thơ hay có thể đứng độc lập.
Một bản trường ca hay là bản trường ca có
giá trị tư tưởng cao và có giá trị văn chương tương ứng. Thiếu một
trong hai thứ, là không trọn vẹn. Rất đáng ghi nhận là giá trị tư tưởng
của bản trường ca này nằm trong văn mạch yêu nước, một truyền thống quý
báu của dân tộc. Và về nghệ thuật, ngoài bố cục chặt chẽ liền mạch, hợp
lí, còn có rất nhiều câu thơ được viết bởi một tài hoa đang vào độ chín.
Những câu thơ có thể neo vào tâm trí mọi người, như mỏ neo của các tàu
chiến sĩ hải quân neo vào lòng biển.
Trong một rừng trường ca của chúng ta,
(theo Đỗ Quyên “đến nay – 2/10/2012 – trong tổng số 409 tác giả, có 293
tác giả trường ca và 116 tác giả thơ dài có tính trường ca: trung bình mỗi tác giả đã viết hơn 2 tác phẩm có tính trường ca” – nguồn: khoavanhoc.edu.vn,
nghĩa là có khoảng 1000 trường ca). “Biển mặn” là một trường ca thành
công. Nó càng đặc biệt có ý nghĩa khi trường ca này ca ngợi những người
lính biển đang tiếp nối “Trường Sơn Rừng” của lớp lớp cha anh.
Hà Nội, 13/12/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét