Tóm tắt lí lịch hoạt động văn học
Họ và tên: Vũ Nho
Bút danh khác: Võ Nhu, Anh Nhu
Năm sinh: 1948
Quê quán: Gia Minh, Gia Viễn, Ninh Bình
Tốt nghiệp khoa văn ĐHSP Việt Bắc 1970
Nhận bằng TS, ĐHSP Ghéc xen ( Liên xô) 1984
Được phong Phó giáo sư: 1991
Đã dạy Đai học Sư phạm, làm chuyên viên chỉ đạo bộ môn ở
Bộ Giáo dục và Đào tạo, làm nghiên cứu tại Viện KHGD Việt Nam.
Hội viên Hội nhà văn Hà Nội và Hội nhà văn Việt Nam.
Đã viết, dịch (chung và riêng) hơn 100 đầu sách về văn học và giáo dục.
Đã viết và công bố khoảng hơn 400 bài báo, trong đó có 3 bài
ở nước ngoài về văn học và giáo dục.
Đọc BÌNH THƠ của Vũ Quần Phương
Vũ Nho
Tập
BÌNH THƠ của Vũ Quần Phương do nhà xuất bản Dân Trí xuất bản năm 2012
có 141 bài bình thơ, trong đó có 3 bài bình ca dao, một bài bình trích
đoạn sử thi Đăm San, 1 bài bình bài thơ vô danh, còn lại là 136 bài thơ
của các tác giả trong nước và nước ngoài. Người viết đã đụng chạm đến 2
nhà thơ Trung Quốc, 2 nhà thơ Pháp cùng với 67 tác giả Việt Nam cổ điển
và hiện đại. Thơ của các nhà thơ nữ lọt vào mắt xanh của nhà phê bình
chỉ có 6 người; bốn tác giả cổ điển là Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh
Quan, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Hạ Huệ; hai nhà thơ hiện đại là Anh Thơ (2
bài) và Xuân Quỳnh (3 bài). Những nhà thơ được Vũ Quần Phương bình nhiều
nhất là Nguyễn Du, Tố Hữu (7 bài); Hồ Chí Minh (6 bài); Huy Cận, Xuân
Diệu (5 bài);Tản Đà, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa (4 bài).
Các
bài bình thơ của Vũ Quần Phương được viết rải theo suốt chặng đường
sáng tạo bền bỉ của nhà thơ. Những bài viết sớm nhất in trong tập bình
thơ đầu tiên “ Đọc thơ Hương Tích” xuất bản năm 1986, các bài tiếp theo
in trong “Thơ với lời bình” xuất bản năm 1990; tiếp đó là các bài viết
in trong “Ba mươi tác giả văn chương” năm 2009. Quan sát ngày tháng in
dưới mỗi bài viết có thể thấy năm 2008 là năm nhà thơ viết khỏe nhất :
23 bài, bình quân mỗi tháng gần 2 bài. Những bài viết cuối đưa vào tập
là bài viết về thơ Vũ Từ Trang và Phạm Khải viết tháng 4 và tháng 5 năm
2012, trước khi sách Bình Thơ được in xong một tháng.
Vũ Quần
Phương đã sử dụng thành thạo, biến hóa, đa dạng mà nhất quán các thao
tác bình thơ ông đã tích lũy trong suốt quá trình viết 141 bài bình của
tập BÌNH THƠ.
Trước
hết là những “mở bài” cho các bài viết. Thật ra, khi viết hai chục bài
thì vấn đề mở bài vừa dễ lại vừa “cực khó”. Viết đến năm chục bài
thì cái dễ và cái khó ấy tăng lên gấp đôi. Viết đến hơn 100 bài thì
chỉ có bậc cao thủ mới có thể làm được vì rất dễ “lặp lại”, dễ nhàm.
Nói dễ vì người viết đã có một trải nghiệm thực tế, viết càng nhiều
thì trải nghiệm và kinh nghiệm thêm dày. Nhưng cái khó cũng tăng lên
nhiều lần vì người viết không thể lặp lại. Mở đề trực tiếp, gián tiếp;
mở đề bằng kỉ niệm riêng, bằng câu chuyện; mở đề bằng so sánh, liên
tưởng; mở đề bằng nêu hoàn cảnh sáng tác, hoàn cảnh thành thơ; mở đề
bằng giới thiệu tóm tắt tiểu sử, giới thiệu tập thơ có bài thơ được
bình,… Các kiểu đó Vũ Quần Phương đều đã sử dụng. Chính mẫn cảm của
người bình đã mách cho nhà bình thơ chọn kiểu mở đề nào cho bài thơ nào.
Thành ra người đọc luôn luôn cảm thấy tự nhiên khi theo người bình vào
bài thơ. Đấy là sự thể hiện tài năng của người viết.
Tiếp
theo là làm thế nào để tiếp tục lôi cuốn, hấp dẫn người đọc sau khi đã
vượt qua cửa ải “mở đề”. Ở đây cũng lại là chỗ vô cùng biến hóa, linh
hoạt của ngòi bút bình thơ Vũ Quần Phương. Một điều cần tuân thủ với
người bình thơ là phải luôn bám sát văn bản. Với nhiều bài thơ có độ dài
trung bình, cái cách thông thường nhất, dễ làm nhất và hiệu quả nhất là
chia khổ để dễ bình, làm cho người đọc, người nghe dễ theo dõi. Vũ Quần
Phương ưa chọn cách này. Và như vậy muốn hay không, sẽ có một công thức
được hình thành một cách tự nhiên: Khổ thơ đầu,…Các khổ tiếp theo,…Khổ
thơ cuối,…Nhưng người đọc không cảm thấy nhàm chán chính là nhờ ở sự
phân tích tinh tế, sâu sắc và thú vị của người bình. Trần Đăng Khoa nói
đúng “ ông (VQP) rất giỏi khi đi vào những tiểu tiết tinh vi của bếp núc
nhà nghề” (Mấy lời mở sách). Nhưng nếu chỉ giỏi đi vào tiểu tiết thì
liệu người bình có đủ sức lôi cuốn độc giả? Vũ Quần Phương ngoài việc
giỏi đi vào tiểu tiết, còn giỏi nắm bắt cái hay, cái lạ, cái độc đáo
của bài thơ, khổ thơ, hình tượng thơ. Nói cách khác là giỏi nắm bắt “hồn
vía” bài thơ. Chọn bình một bài thơ, nhưng Vũ Quần Phương không ít lần
dẫn ra những đặc điểm, ưu điểm cả tập thơ của tác giả. Ví dụ viết về
bài “Tìm người”, nói ưu điểm tập “Thư mùa đông” của Hữu Thỉnh (tr. 666);
viết về bài thơ “ Những đứa trẻ chơi trước cửa đền”, nói “nét duyên
riêng mới mẻ” của Thi Hoàng trong tập thơ “ Bóng ai gió tạt” (tr.719);
viết về bài “ Ngược núi Thiên Thai” của Vũ Từ Trang, Vũ Quần Phương khái
quát thơ ba thời kì ở nước ta: “ Cách viết hàm súc làm mạnh ý và tạo
thẩm mĩ ở đoạn thơ này là ưu điểm của thơ hôm nay. Đậm đặc hơn thơ thời
bao cấp (ham kể việc), hơn cả thơ thời Thơ Mới (ham trữ tình à ơi).(tr. 723)
Là người
bình phẩm, Vũ Quần Phương cũng như bất kì người bình thơ nào phải
thuyết phục được người đọc, người nghe tại sao lại chọn bài thơ đó mà
không phải bài thơ khác? Bài thơ đó hay, độc đáo ở chỗ nào về nội dung
và về nghệ thuật? Bao giờ Vũ Quần Phương cũng khẳng định và thường chỉ
ra đúng giá trị của bài thơ được bình. Sau khi đã phân tích xong, thì
tóm lại; hoặc nói ngay từ đầu để căn cứ vào đó triển khai. Ví dụ, khen
trực tiếp bài thơ hay
khi bình bài “Dọc theo bến cảng” ( tr.45), bài “ Hai bài thơ hái sen
của Nguyễn Hạ Huệ” ( tr. 89), bài “ Mẹ Suốt” (tr. 531), bài “ Dịu và
nhẹ” ( tr.645), bài “ Đò Lèn” (tr. 648), bài “ Sang thu” ( tr.660), bài “
Đường lưng Đèo Gió” ( tr. 687)…
Ví dụ chỉ ra nét đặc sắc
của bài khi viết về “ Cảnh Hương Sơn” ( tr. 177), bài “ Vịnh Hương Sơn”
( tr.188), bài “ Gửi bác Trần Nhuận Minh” ( tr. 695), bài “ Dặn con” (
tr.704),…
Nhiều
khi ta thú vị được chia sẻ với Vũ Quần Phương khi nhà thơ vừa bình
thơ, vừa tâm sự kinh nghiệm đọc thơ và thưởng thức thơ với bạn đọc. “Tôi
nghiệm thấy chữ nghĩa bị cắt ra từng mảnh để phân tích dễ làm lạc đi
cái ý toàn thể lắm. Nên phân tích trong các mối quan hệ: liên hệ giữa
tác giả với xã hội, tác phẩm với tác giả, giữa câu với chữ, nghĩa đen
với nghĩa bóng” ( tr. 140). Đây là kinh nghiêm mà Vũ Quần Phương đã tổng
kết và đã thực hành thành công trên các bài viết. Một chỗ khác ông viết
: “ Khi đọc ý ( nghĩa đen) cần đọc kĩ để thấy cái thú vị của việc đưa
thực tế ( làm bánh trôi) vào thơ. Còn đọc tứ cần tinh nhạy trong liên
tưởng và rộng xa trong kiến thức để phát hiện ra hàm ý, gọi nôm na là
nghĩa bóng của hình tượng, mà nói chữ nghĩa là sức khái quát của hình
tượng, là khâu giải mã bài thơ” ( tr.145).
Sức
liên tưởng tinh nhạy của người làm thơ được huy động vào lĩnh vực
phê bình; kiến thức rộng xa của một người chịu đọc, chịu nghĩ đã giúp
cho người bình chỉ ra được nét đặc sắc của mỗi bài, có khi chỉ là của
một câu, một hình ảnh hay một từ trong bài. Đấy cũng là một nét độc đáo
làm nên sức lôi cuốn của ngòi bút bình thơ Vũ Quần Phương.
Là một
nhà thơ có ý thức cao về nghề nghiệp, Vũ Quần Phương mỗi khi bình
không chỉ nói toàn cái hay, cái đẹp của đối tượng. Nhà bình thơ cũng
không ngại nói ra những điều bất cập hoặc còn non lép. Có điều cách nói
của người bình là cách nói chân thành, không phải cao ngạo hay “bới
lông tìm vết” nên dễ được đồng tình, cảm thông. Việc chỉ ra những hạn
chế, những “tì vết” trên viên ngọc cũng góp phần vào nâng cao thị hiếu
thẩm mĩ và năng lực thưởng thức của bạn đọc. Đây cũng là một công lao
cần ghi nhận ở nhà bình thơ Vũ Quần Phương.
Bình thơ của bà huyện Thanh Quan, ông phê bình không ngại bị cho là “ngạo ngược” khi dám chê thơ tiền nhân : “ Câu sáu : Thương nhà mỏi miệng cái gia gia là
một câu thơ độn. Nó tồn tại như một hình nhân làm vế đối cho câu năm,
không có hồn vía gì. […] Thơ đường của bà Thanh Quan nổi tiếng là có
ngôn ngữ sang trọng, đài các mà đến lúc phong trần thì cũng phong trần
như ai. Tiếc thế” (tr. 149).
Với
bậc đàn anh, bậc thầy Huy Cận, trong bài “ Các vị la hán chùa Tây
Phương” người bình cũng thẳng thắn nhận xét : “ tài sắc câu thơ có bị
nhạt đi, thậm chí có chỗ thừa”. Và mở rộng hơn, ông đánh giá: “Đây là
cái bệnh thích đầy đủ và rõ ràng, bệnh của một thời không chỉ riêng ở
Huy Cận. Nhà thơ thường đứng ra thuyết minh giảng giải. Mấy chục năm
liền, thơ chúng ta thường dài, sức hàm súc bị giảm sút là vì cái lẽ này”
( tr.497).
Bình
thơ của nữ sĩ Xuân Quỳnh, bên cạnh những khẳng định, biểu dương, ông
cũng không bỏ qua những chỗ còn hạn chế “ Đoạn một và đoạn bảy chỉ tạo
một tình thế cho lời bình luận có tính báo chí và cổ động. Kể ra với
bút pháp tinh vi hơn như ở giai đoạn sau này của chính Xuân Quỳnh, “bình
luận” có thể kín đáo ngay trong phần trữ tình bằng một chi tiết nào đó,
chứ không nên lộ liễu phơi ra hai đoạn giáo đầu và tóm lại thật thà như
thế” ( tr.553).
Nhận
xét về việc kéo dài quá mức trong bài thơ Tiếng Việt của Lưu Quang Vũ,
người bình một mặt chỉ ra cần kết thúc sau câu thơ “ Thành Nguyễn Du
vằng vặc nỗi thương đời”, mặt khác lại thông cảm vì Lưu Quang Vũ “đang
phong phú thừa thãi cả hình ảnh lẫn tình ý” phải nói hết, “ Có điều cần
thông cảm với tác giả là hồi ấy thơ của chúng ta thích rõ ràng và đầy
đủ, cả người viết lẫn người đọc đều không ngại sự dài dòng” (tr. 628).
Có thể
thấy rằng cái giọng thủ thỉ, tâm tình kết hợp với sự duyên thầm, hóm
hỉnh, hài hước của Vũ Quần Phương cũng làm cho các bài bình thơ có sức
hấp dẫn riêng. Không ít lần nhà bình thơ tranh luận về cách hiểu câu
thơ, bài thơ với đồng nghiệp, nhưng cách tranh luận của Vũ Quần Phương
không hề cao giọng, cũng không hiếu thắng. Người viết thường nhẹ nhàng,
khiêm tốn nói về một cách hiểu khác, rồi lướt qua. Việc còn lại là tùy
người đọc quyết định. Có khi phân tích đã khá sâu, khá thấu đáo, nhưng
Vũ Quần Phương vẫn viết “ ai cũng cảm nhận được vẻ đẹp của nó, nhưng dù
phân tích đến đâu vẻ đẹp ấy vẫn là một điều bí ẩn” ( tr. 250). Ai đó có
thể coi đó như là lời rào đón khôn ngoan, còn tôi thì tin vào sự chân
thành của người viết.
Tất
nhiên Vũ Quần Phương cũng có những nhược điểm như bất kì người viết
nào. Chỉ kể ra đây mấy điểm để thấy không phải lúc nào nhà bình thơ cũng
thành công.
Chẳng hạn bình bài thơ Sao không về vàng ơi
của Trần Đăng Khoa, ông cho rằng mất của khó làm thơ. Rồi lại nhận định
mất chó thì chỉ “buồn cái tay” ( Mày không bắt tay tao, tay tao buồn
làm sao). Trong khi đó con chó Vàng, với chú Khoa là một người bạn, bạn
khác loài nhưng vô cùng quan trọng.
Vũ Quần Phương đã hiểu không chính xác từ “dã kê”, gà đồng,
tức là loại gà hoang chứ không phải là gà trong xóm. Vì vậy bình bài
thơ của Phù Thúc Hoành, tác giả viết: “ giữa hiu quạnh hoang vu gặp ấm
áp làng mạc : tiếng gà đồng” (tr. 87) là không thuyết phục. Cũng vì
không rành tiếng Hán, nên câu thơ của Nguyễn Hạ Huệ “ Băng ki nguyên tự
hương”, Nguyễn Vinh Phúc dịch: “Hương bay từ tấm thân ngà”; nhưng người
bình thơ lại bình “ gió vờn tóc và gió mang hương ướp da”. Da tự tỏa
hương khác xa với gió mang hương để ướp da. (Mà chữ ướp da nghe cũng không nhã vì gợi sự ướp xác!).
Có
những lúc nhà thơ ham giảng giải cho người đọc chẳng khác nào một thầy
giáo dạy văn “nói hết nước hết cái” ( Chữ của Vũ Quần Phương khi bình
bài Về Tuyên của Xuân Diệu).
Cũng có khi quá sa đà vào nhưng chi tiết đời sống ngoài tác phẩm, dẫu
rằng “hay thì thật là hay” nhưng làm cho bài bình bị kéo dài, “lan man”.
Và cũng có một đôi chỗ hiểu chưa trúng, bình chưa đúng.
Mấy
nhược điểm và hạn chế kia, có thể là do tôi soi các bài bình một cách
khe khắt quá chăng? Có thể là do tôi không muốn chỉ khen một chiều
mà nêu ra chăng? Có thể là do tôi đem “con mắt hạt đậu” mà nhìn nhận
chăng? Dù đánh giá thế nào, tôi vẫn cho rằng thành tựu bình thơ của
Vũ Quần Phương là một thành tựu lớn, rất đáng ghi nhận. Ông là nhà bình
thơ hàng đầu ở nước ta, thiết tưởng đánh giá như thế cũng không quá.
Nhà thơ đã giúp cho các thầy cô giáo và các em học sinh tiếp cận những
áng thơ hay một cách lí thú. Và sau hết, nhờ những bài bình cần mẫn, tài
hoa, sâu sắc của Vũ Quần Phương, bạn đọc đông đảo đã có cơ hội để
thưởng thức vẻ đẹp những viên ngọc trong kho tàng thơ ca đất nước.
Nhà sáng tác Nha Trang tháng 3/2013
Hà Nội, tháng 4/2013
(Nguồn Tân văn số 4 - NXB Hội nhà văn, 2013)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét