NHÀ THƠ CỦA MIỆT VƯỜN, VÀM SÔNG
Đọc Những vàm sông đêm của Nguyễn Thị Ánh
Huỳnh, nxb Hội nhà văn, 2018
Vũ Nho
Mỗi nhà thơ, nhà văn đều có một mảnh
đất thân thuộc, gắn bó máu thịt của mình. Và do đó mảnh đất ấy luôn luôn ám ảnh
họ, là địa chỉ đi về của những kí ức, những giấc mơ. Nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh
dù có “Bắc thang lên Đà Lạt”, có “rơi
ngược lên trời” ở “ Cáp treo Bà Nà”, có thèm “giọng của một người Sài Gòn” khi “ Qua Cồn Phụng”, có băn khoăn về tình yêu
vĩnh cửu khi nhìn phế tích “ Thánh địa Mĩ
Sơn”, có bất ngờ gặp “ Hà Nội ở Nha Trang”, có lang thang đêm “Hội An” thấy “ hoàng hôn / lặn vô ngàn
chiếc đèn lồng” và “đêm Hội An/ ai cũng thành cổ tích”… thì bạn đọc vẫn nhận ra
chị là nhà thơ của “Cần Đước”, của “ Miệt vườn”,
nhà thơ của “ Những vàm sông đêm” (*)
như chị hồn nhiên mà kiêu hãnh nói về mình:
Má gốc gió ba gốc xa từ nắng
Em gốc Nam Kì
Cần Đước […]
Em người đàn bà miền Nam gốc đước
( Cần
Đước)
Cây đước, một thứ cây đặc biệt trong con mắt của chị, là cây “ mang bầu ở chân/ chồm chồm như những chiếc
nơm/ úp phù sa lấn biển […] buồn vui
với bão tố/ ngủ nghê cùng sóng khơi/ giành giật với biển cả từng hạt hồng cầu đất/
ăn mặn chát/ uống mặn chát […] Những
cây đước
bước lên bờ thành người Cần Đước”
( Cần Đước).
Người đàn bà Cần
Đước ấy cũng là người “miệt vườn” với bao nhiêu mến thương như cồn lên trong những
dòng thơ viết về xứ sở:
tiếng vạc sành xe thổ mộ/nhịp hồn xưa
*) Trong ngoặc kép, in nghiêng là tên các bài thơ của Nguyễn Thị Ánh Huỳnh
gõ mõ suốt canh trường
quẫy sao trời/ cá lìm kìm nức nở
không ai là người dưng/khác làng cũng lối xóm
quầng mây thành bà con/người khuất mặt khuất mày tiên tổ
ổ chim trên bàn thờ/chung nước uống tàn nhang
miệt vườn
cố hương của nỗi niềm vạn cổ
(
Miệt vườn)
Đã có chuyện những cây đước bước
lên bờ thành người Cần Đước, thì cũng có chuyện
“ Những người đàn bà Nam Kỳ/ chết đi rồi hóa những vàm sông đêm”. Những
vàm sông ấy là những con người chịu thương chịu khó, cô đơn “ không bờ đê để níu kéo/ không mái dầm để thở
than/ không con cá bống để lí lắc” lặng thầm sinh nở phù sa, bồi đắp nên châu
thổ:
Những vàm sông/vật vã nuôi từng con tép
đêm đêm đi biển một mình/sinh nở phù sa
thành châu thổ
(
Những vàm sông đêm)
Trong thơ của người đàn bà miệt
vườn, người đọc có thể thưởng thức âm thanh của câu vọng cổ, tiếng đờn kìm, tiếng
gió chướng như một đặc sản văn hóa miền sông nước:
Bác Sáu Lầu vuốt dây tơ/Làm dây câu/Câu vọng cổ
Kinh rạch hết hồn/tiếng đàn kìm/ luyến nước lớn/láy nước ròng
ai canh tàn đói lòng/ăn gió chướng/ ngồi ca
( Vọng
cổ)
Và cũng có thể khắc khoải suốt
chiều, mất ngủ tàn đêm với tiếng chim bìm bịp kêu thương đầy nỗi niềm ai oán:
Bìm bịp
tiếng chim kêu
làm góa cả buổi chiều […]
tiếng chim có bùa ngải
bìm bịp bìm bịp
tiếng kêu vò xé bầu trời
( Bìm bịp kêu thương)
Nhà thơ Ánh Huỳnh
Phải gắn bó máu thịt với miền quê
kiểng Nam Bộ mới hình dung được sức quyến
rũ ma mị của sáu câu vọng cổ:
nhậu đi sông ơi
tối nay gánh hát về ấp
cánh cò bay lạc tiếng thổ tiếng kim
gió sên phách kéo màn sông Hậu
vút câu thứ năm đã nghẹn dòng kinh
búng khẽ ghi- ta câu sáu lên
dàn dụa sông Tiền
(Vọng cổ)
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo tinh tế khi nhận xét về thơ của tác
giả nữ miền châu thổ, vàm sông :
“Thơ
Nguyễn Thị Ánh Huỳnh không tả nhiều về không gian miệt vườn sông nước Nam Bộ mà
găm vào những thân phận tình yêu của con người nơi đây. Những bài thơ ứa ra nỗi
niềm chua cay mặn ngọt đời người, nó tha thiết như tiếng đờn cò, nó ngất ngư
như những câu ca vọng cổ gọi đêm, nó lặn vào hồn đước muôn đời. Và trên hết, đó
là thân phận của những người phụ nữ đầy khao khát tình yêu muốn khai phóng khỏi
niềm cô độc…” ( Nguyễn Trọng Tạo -
Giới thiệu thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh trên Hội ngộ văn chương).
Nguyễn Thị Ánh
Huỳnh là cây bút nữ có bứt phá mạnh mẽ trong tập “Đừng múc cạn nỗi buồn”. Bạn đọc
đã biết đến chị như một người phụ nữ
bền bỉ đấu tranh cho hạnh phúc của giới
mình, của “ những người đàn bà bị dìm bị
dập xoáy suốt đời/ Bởi sóng của khổ đau, đói nghèo, nô lệ” ( Cơn sóng khác, trong tập “Không dám tắt đèn”).
Chị đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái giả dối, cái ác, sự bội tình. Hình ảnh người đàn
bà hiền lành bị biến thành sư tử thật dữ
dội:
Em nổi điên lên
Xé đôi trời đất
Xé anh thành muôn mảnh
( Gió thất tình- tập “Đừng múc cạn nỗi buồn”)
Em căm thù anh
Tình yêu giết người
(
Nấm mộ- tập “Đừng múc cạn nỗi buồn”)
Nhưng xét về bản chất, người đàn bà nổi loạn, mạnh mẽ, nghiệt ngã ấy vẫn là một người đàn bà
sáng suốt hiền lành trong sâu thẳm cõi lòng.
Viết về tình yêu, hạnh phúc, trong tập
thơ này, ngòi bút của chị đằm hơn, sâu lắng hơn và cũng dịu dàng hơn. Về sự xa
cách không gặp nhau của hai người cùng yêu, chị viết:
Em đã bắc một trăm cái thang
vẫn không trèo lên được đời anh
tâm hồn anh xa hơn trời
anh đã bắc một ngàn cái thang
mà không trèo lên được tình yêu em
tình
yêu em không ở trên trời
( Bắc thang lên Đà Lạt)
Không gay gắt như trước đây ( trong
bài Ai đã tặng cái nhìn thuốc độc?, tập “Đừng múc cạn nỗi buồn”),
chỉ là câu hỏi bình thường thôi, nhưng nhức nhối:
Có
phải anh đã giết linh hồn em
bằng
tình yêu
hay
hồn em sợ anh
trốn
mất tiêu?
(
Gọi hồn khi sống)
Trả lời đòi hỏi của người yêu thương
về sự cần phải “là chính mình”, chị viết
sâu sắc mà hóm hỉnh:
Anh
ơi/Em còn mình đâu?
Bốn
mươi năm/ em toàn làm người khác
giờ
tìm mình/ở đâu?
Và câu trả lời này thật bất ngờ:
Chính mình của hoa /là nụ
chính
mình của nụ/là cây
chính
mình của em/là anh đó
( Chính mình)
Nói về tình yêu có sự mù quáng và khát khao đau khổ, chị chỉ
yêu cầu nhẹ nhàng “khai thật đi anh” :
Anh có phải/ là con quạ /mổ em mù mắt /để em
không còn nhìn thấy/ một người đàn ông nào khác/ ngoài anh.
Khai thật đi anh/ anh có
phải/ là sa mạc/ đầy đọa em trong cơn khát vĩnh hằng.
(
Khai thật đi anh)
Trước sau, người phụ nữ trong thơ vẫn dành trọn tình cảm cho
người thương, cho gia đình và đặc biệt là cho những đứa con:
con là biển
chồng là sóng
ta vẫn có Nha Trang trong nhà
(Gió Nha
Trang)
Dù đã từng trải nghiệm “ Có
một cuộc sống khác/ Trong tôi nào phải tôi” ( Khác), từng “đi lạc/ vô cuộc đời nhiều người khác”,
thì mong ước lớn nhất, khi người phụ nữ đó không còn sức lực đi, vẫn đau đáu một
nỗi niềm: “dù những bước đi đã hết/ chị vẫn muốn vạn lần/đi lạc/ trong cuộc đời/
của các con” ( Lạc)
Đó là cái giọng riêng
không giống ai mà Nguyễn Thị Ánh
Huỳnh đã tìm thấy cho mình khi viết về tình
yêu, hạnh phúc.
Có thể nhận
thấy nhà thơ rất khát khao được gặp gỡ
thông cảm và sẻ chia với mọi người. Trong tập này người đọc gặp rất nhiều lần
nhà thơ cất tiếng gọi. (Trong dấu ngoặc đơn là
dẫn chứng số trang) Mưa ơi ( 7) ;
Anh ơi ( 10); Đò ơi ( 14); Đước ơi (16); Anh ơi ( 18); Chị ơi ( 28); Má ơi, má ơi
(29); Ơi lúa, ơi sen, ơi súng (39); Anh ơi
(41); Sông ơi ( 45); Vọng cổ ơi ( 45);
Chim ơi ( 72); Người dưng ới ( 87); Thơ phú hỡi ( 87); Cỏ ơi ( 90). Gọi rất nhiều
đối tượng chỉ là để muốn có người nghe sự
giãi bầy. Đúng như chị viết:
“Ngày tháng chìm sâu, và sẽ mất đi. Tất cả
rồi cũng cuốn đi trong vòng xoáy của phôi phai. Vì thế nên tôi chưa bao giờ hy
vọng để lại chút gì ngấn tích. Chỉ mong mỏi có ai đó dừng lại giây lát – nơi
trang sách này- để cùng tôi gặp gỡ, thông cảm và sẻ chia. […] Có ai đó không…”
( Lời ngỏ).
Có! Có rất
nhiều những Anh, nhưng Chị, những Em, những bạn đọc yêu quý nhà thơ của miệt vườn,
vàm sông gặp gỡ, thông cảm và sẻ chia với chị. Đó chẳng phải là hạnh phúc của
người cầm bút hay sao? Và đó cũng là câu trả lời cho băn khoăn của nhà thơ ở cuối
tập:
Đường về hạnh phúc
Gánh
nhiều ước vọng ra đi
Cuối
mùa gặp vạt dã quỳ dừng chân
Cỏ ơi
cho hỏi một lần
Đường
về hạnh phúc là gần hay xa?
Hà Nội,
6 tháng 9 năm 2018
In trên VĂN NGHỆ CÔNG AN số 414, ngày 4/10/2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét