Thứ Tư, 2 tháng 8, 2023

 


NHÀ GIÁO- NHÀ VĂN NGUYỄN THỊ THIỆN - NGƯỜI CẦN MẪN VỚI THƠ HAY

            Qua 2 tập  Nơi biên cương Tổ quốc , nxb Hội Nhà văn, 2022 và Tiếng lòng nơi đầu sóng, nxb Quân Đội Nhân Dân, 2023

                                                 Vũ Nho

           Nhà giáo - nhà văn Nguyễn Thị Thiện, hội viên Hội nhà văn Hà Nội là một cây bút giàu đam mê. Chị cần mẫn, không ngừng tìm tòi, phát hiện và lan tỏa vẻ đẹp của thơ văn.  Những năm gần đây, người đọc gặp nhiều bài viết của chị trên các báo giấy, báo mạng viết về tác phẩm của các nhà thơ Vương  Trọng,  Nguyễn Thị Mai, Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Sĩ Đại; các nhà văn  Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Hoài Nam, Thu Lâm... Cũng có khi chị viết về chân dung tác giả như: nhà văn Thế Hùng, nhà thơ Vương Trọng. Gần đây chị còn viết về nhân vật lịch sử như cụ Nghè Nguyễn Đăng Huân… 

Nhưng với bạn đọc, trước hết nhà văn Nguyễn Thị Thiện là người đam mê với thơ.  Chưa kể một tập truyện ngắn và tập phê bình tiểu luận, tác giả đã xuất bản đến tám tập bình thơ : Trang thơ trang đời (2017), Tình quê tình người, tập 1 (2018), Tình quê tình người, tập 2 (2019), Thơ dâng Mẹ (2020),  Quê hương Việt Nam  (2020) , Tình  Cha con (2021),  Nơi biên cương tổ quốc (2022), Tiếng lòng nơi đầu sóng (2023).

 Bình quân mỗi tập khoảng 32 bài thơ được bình, nhà văn Nguyễn Thị Thiện đã viết lời bình  cho khoảng   trên 250 bài thơ từ cổ chí kim, mà chủ yếu là thơ hiện đại . Một con số ấn tượng! Lại một con số ấn tượng khác là rất nhiều bài bình thơ trước khi đưa vào sách đã được đăng trên các báo Văn Nghệ, Tạp chí Thơ, Phụ nữ Việt Nam, tạp chí Đời sống gia đình của báo Phụ nữ Thủ đô và tạp chí Gia đình Hạnh Phúc của báo Phụ nữ Việt Nam. Trong 2 tập bình thơ này, con số bài đã đăng báo là 26 bài. Điều đó cũng phần nào nói lên chất lượng các bài bình của nhà văn Nguyễn Thị Thiện.

Có thể ai đó nghĩ rằng vốn là cô giáo dạy văn cấp THPT, nhà văn dễ dàng lấy các bài thơ trong sách giáo khoa để bình, như một công đôi việc. Thật ra không phải như vậy. Các bài có trong SGK là số ít. Nhà bình thơ đã tìm, chọn,  lấy thơ của các tập thơ, lấy thơ trên trang Blog hay Phay búc cá nhân, lấy thơ trên mạng. Tất cả đều là sự tìm tòi cần mẫn, công phu của tác giả. Những bài có trong SGK là Nam quốc sơn hà, Tây Tiến, Đất nước ( Tập Nơi biên cương Tổ quốc);  Phú sông Bạch Đằng, Cửa biển Bạch Đằng, Biển, Đoàn thuyền đánh cá, Mẹ Tơm, Những cánh buồm, Quê hương ( Tập  Tiếng lòng nơi đầu sóng). Chỉ có 10 trên tổng số 64 bài thơ được chọn.  Đáng chú ý là bên cạnh những bài thơ cổ điển, người bình thơ đã chọn những bài thơ hay của các nhà thơ hiện đại như Tố Hữu, Hoàng Trung Thông, Tế Hanh, Phạm Tiến Duật,  Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Bằng Việt, Vương Trọng,  Trần Đăng Khoa, Nguyễn Quang Thiều, Đỗ Trung Lai, Nguyễn Sĩ Đại, Nguyễn Việt Chiến, Khuất Quang Thụy,… Các nhà thơ nữ góp bài trong 2 tập sách gồm  Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ,Nguyễn Thị Hồng Ngát,   Nguyễn Thị Mai, Phi Tuyết Ba, Chử Thu Hằng, Nguyễn Phan Quế Mai,  Phạm Minh Tân, Vũ Minh Thu,… Một số nhà thơ chưa thật  nổi danh cũng được người bình trân trọng giới thiệu như  Quang Thiên Phú, Đặng Toán, Chu Linh, Ngô Bá Hòa, Lê Tú Lệ,…Việc tìm  những bài thơ hay cùng chủ để đã công phu. Việc tìm ra  nét độc đáo về tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của mỗi bài còn khó hơn rất nhiều. Nhưng với tấm lòng say mê thơ ca, với kinh nghiệm đã bình hàng trăm bài trong các tập bình thơ trước đó, nhà văn Nguyễn Thị Thiện đã vượt qua thử thách này khá ngoạn mục.

            Trước tiên phải kể đến việc đặt tên  (rút tít) cho các bài bình. Tác giả đã khá tinh tế, thông minh đặt những tên cho các bài bình rút từ chính một câu thơ hay chủ đề , tư tưởng nổi bật của bài thơ. Chúng tôi cho rằng việc “rút tít” thành công cũng là thể hiện  định hướng  đúng cho việc triển khai bài viết. Ví dụ có không ít những  nhan đề bài bình gợi cảm như : Tây Tiến ( Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh); Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây (Đường ra trận mùa này đẹp lắm);  Chiếc gương soi trên buồng lái ( Vì chính em là một tấm gương), Cây xấu hổ ( Và chuyện này chỉ cây biết với anh), Đêm sông Cầu ( Giữ tình yêu như giữ lửa),… ( Tập Nơi biên cương Tổ quốc). Còn tập  Tiếng lòng nơi đầu sóng,  thì có :  Con rùa đội núi ( Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/  Đất Việt muôn năm đất trị bình),  Quê hương ( Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ), Mẹ Tơm ( Những trái tim như ngọc sáng ngời), Những cánh buồm ( Cha gặp lại mình trong tiếng ước mơ con), Thơ viết ở biển (Vì sóng đã làm anh nghiêng ngả vì em), Thuyền và Biển ( Nếu phải cách xa anh/Em chỉ còn bão tố), Gửi em và con (Con là cánh buồm cha gửi đến mai sau),…

            Với một loạt các bài thơ từ trung đại, qua kháng chiến chống Pháp, qua kháng chiến chống Mĩ, rồi đất nước hòa bình thống nhất, đôỉ mới, hội nhập,… với các bút pháp và phong cách vô cùng khác nhau, ngươì bình đã có cách xử lí linh hoạt mềm dẻo. Vẫn là cách bình câu thơ, khổ thơ, cách phân tích hình ảnh thơ, biện pháp tu từ, nhưng gia giảm thế nào, kết hợp theo tỉ lệ ra sao để không rơi vào trùng lặp, đơn điệu. Khi thì giới thiệu tác giả, khi thì giới thiệu hoàn cảnh ra đời của bài thơ, khi lại trực tiếp nói về các bài thơ cùng chủ đề, khi so sánh bài thơ được bình với một bài thơ khác, khi giới thiệu cảm hứng của nhiều thi sĩ,…

            Cách kết thúc mỗi bài viết cũng khá đa dạng. Khi người ta đã viết mở đầu và kết thúc cho hàng trăm bài bình thơ thì việc này quả là không dễ dàng. Làm sao để cái kết như là sự tất yếu, như là một gói lại, nhưng đồng thời lại như một sự mở ra. Làm sao cái kết có thể như bỏ lửng, mời gọi bạn đọc suy nghĩ tiếp. Chúng tôi có lần đã nghiên cứu về các kiểu kết thúc của một bài thơ. Khá thú vị khi  thấy tác giả Nguyễn Thị Thiện kết thúc các bài bình thơ một cách linh hoạt, tự nhiên. Xin dẫn một vài ví dụ ngẫu nhiên. Kết bài “Thuyền và Biển”, tác giả dẫn ca khúc và kết luận : “ bài thơ và ca khúc như chim liền cánh, cây liền cành đã được lan tỏa rộng rãi  trong đời sống tinh thần của người Việt và sẽ còn sống mãi với thời gian”. Kết thúc bài “ Gửi em và con” người viết bình luận: “Thơ hay luôn nhận được sự cộng hưởng của lòng người. Với bài thơ này, đúng như Sel-xlây ( Anh) đã nói : “ Thơ ca làm cho tất cả những điều tốt đẹp nhất trên đời này trở thành bất tử”. Kết luận bài  bình Biển  : “Có người nói : Thơ chị nghiêng về phía những cảm xúc tinh tế, tơ mỏng với tấm lòng đôn hậu. Biển là một minh chứng về phong cách thơ ngọt ngào, sâu lắng, giàu nữ tính của Lâm Thị Mỹ Dạ nên được nhiều bạn đọc yêu thích”. Còn đây là kết thúc bài bình cho “Biển đêm” : “Cám ơn nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát đã nói hộ tiếng lòng dào dạt rung ngân của bao trái tim phụ nữ khi xa cách người yêu” ( trong tập Tiếng lòng nơi đầu sóng).

            Có thể coi lời tâm sự của tác giả Nguyễn Thị Thiện trong mở đầu tập “ Tiếng lòng nơi đầu sóng” cũng là lời bày tỏ chung cho cả hai tập bình thơ này, vì đều viết lời bình các bài thơ nơi biên cương, hải đảo:

            Ngày thường, các anh canh gác cho Tổ quốc bình yên. Khi có giặc, các anh sẵn sàng chiến đấu kiên cường, hi sinh anh dũng cho em thơ yên giấc ngủ say nồng; cho cháu nhỏ tung tăng đến trường học tập, cho bạn trẻ lên giảng đường tích lũy tri thức, chắp cánh ước mơ để ngày mai bay vào bầu trời cuộc sống, cho người già được an vui bên cháu con…Công lao của người chiến sĩ không lời nào nói hết được…Qua cuốn sách nhỏ này, người viết  muốn bản thân cũng như nhiều người hiểu thêm về cuộc sống của người chiến sĩ, bày tỏ lòng yêu quý, ngưỡng mộ, tri ân đối với các bậc tiên hiền và Anh Bộ Đội Cụ Hồ”.

            Chúng tôi cho rằng với 2 tập sách tuyển chọn công phu, với những lời bình  giản dị, dễ hiểu, có những chỗ thăng hoa,…nhà văn Nguyễn Thị Thiện  đã đóng góp  đáng kể vào đời sống văn học hiện nay.

            Nếu có điều gì muốn góp thêm với tác giả  để lần tái bản sẽ tốt hơn. Đó là lai lịch  bài thơ Nam Quốc Sơn hà. Các tài liệu cũ cho là của Lý Thương Kiệt. Nhưng sách giáo khoa THCS cũng đã đính chính ( xem Ngữ văn 7 tập 1, Nxb Giáo Dục, 2003, tr. 63). PGS Bùi Duy Tân cũng đã khẳng định bài thơ này có trước khi Lý Thường Kiệt đánh nhau với quân Tống, nên không thể  do Lý Thường Kiệt viết. (xem:  Bùi Duy Tân: Truyền thuyết về một bài thơ: "Nam quốc sơn hà" là vô danh không phải của Lý Thường Kiệt. Tạp chí Văn hóa dân gian số 4 (72) - 2000, tr.32-42.).

            Cho đến nay, theo những gì chúng tôi biết còn hạn hẹp thì có lẽ người viết lời bình nhiều nhất cho các bài thơ ( chủ yếu là thơ cổ) là nhà văn cựu chiến binh Vũ Bình Lục, khoảng 2000 bài; tiếp theo là tập “Bình thơ” đồ sộ của nhà thơ Vũ Quần Phương. Một người  xứng đáng có tên trong  “kỉ lục bình thơ” chính là nhà văn Nguyễn Thị Thiện.

       Từ giáo viên Văn trở thành nhà bình thơ, lại là bình thơ có kỉ lục với 8 tập đã in, Nguyễn Thị Thiện đúng là con ong chăm chỉ luôn tìm tòi và lan toả vẻ đẹp của thơ văn đáng trân trọng và mến phục!

 

                                             Hà Nội, 30 tháng 6 năm 2023

 

                                               

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét