CUỐN SÁCH ĐỘC ĐÁO CỦA PGS.TS. TRẦN THỊ TRÂM
Đọc Trần Thị
Trâm - Văn học dân gian Việt Nam sau 1986, Nhà xuất bản Văn Học, 2022.
Vũ Nho
Không biết
do cơ duyên nào mà PGS.TS Trần Thị Trâm, giảng viên của Học viện báo chí tuyên
truyền lại gắn bó với văn học dân gian nhiều như vậy. Trong 10 cuốn sách đã công bố thì có tới 4 cuốn liên quan đến
văn học dân gian ở dạng chuyên khảo hay giáo trình. Phải chăng, cuốn sách Văn học
dân gian trong xã hội hiện đại công bố năm 2013, năm 2014 được trao giải
3A và năm 2017 được Hội Văn Nghệ dân gian Việt Nam tái bản là một sự cổ vũ, khích lệ, động viên người viết? Chỉ biết rằng
tác giả Trần Thị Trâm vẫn tiếp tục sưu tầm, tiếp tục nghiền ngẫm, tiếp tục đào
sâu vào mảng đề tài để trên cơ sở của cuốn sách đã công bố, cho ra đời cuốn
sách mới đồ sộ “ Văn học dân gian Việt Nam sau 1986” với dung lượng 433 trang khổ
14,5 x 20, 5 cm. Vì sao lại đặt vấn đề lây mốc 1986 mà không phải là năm nào
khác? Tác giả giải thích:
“Bởi vì
văn học dân gian 30 năm kháng chiến ( từ 1945 đến 1975), đã được sưu tầm, đánh
giá khá đầy đủ trong một số công trình của các tác giả khác. Còn từ 1975 đến
năm 1986, theo quán tính, văn học dân gian vẫn phát triển theo dòng chảy sử
thi, nên sự đổi mới so với giai đoạn 1945 – 1975 là chưa đáng kể”. ( trang
13)
1986 ,
đất nước chúng ta bước vào thời kì đổi mới, tiếp sau đó lại trải
qua thời kì đại dịch covid năm 2020 -2022. Đây là thời kì có những khác biệt rất
lớn với các thời kì trước.
Chúng tôi nghĩ rằng chọn được đúng và trúng cho hướng nghiên cứu đã là một bước thành công. Hơn thế nữa, với tư cách là một chuyên gia về văn học dân gian, tác giả triển khai hướng nghiên cứu trong tinh thần so sánh đặc trưng, hệ thống thể loại, đặc điểm thẩm mĩ của văn học dân gian các thời kì khác nhau, càng làm nổi bật đối tượng văn học dân gian Việt Nam sau 1986.
Chương 1. Đặc điểm phát triển của văn học dân gian Việt Nam sau 1986
là chương quan trọng, thể hiện những đóng góp mới của tác giả trong nghiên cứu.
Để giúp bạn đọc có cái nhìn khái quát về văn học dân gian Việt Nam nói chung và
văn học dân gian Việt Nam sau 1986 nói riêng, Trần Thị Trâm đã nêu vắn tắt Khái niệm văn học dân gian, Đặc trưng của
văn học dân gian Việt Nam, Hệ thống thể loại của văn học dân gian, Đặc điểm thẩm
mĩ dân gian. (từ trang 20 đến 38). Những điều này đều đã có trong các công
trình nghiên cứu, giáo trình của các chuyên gia văn học dân gian như Đinh Gia
Khánh, Đỗ Bình Trị, Hoàng Tiến Tựu, Nguyễn Bích Hà,…Tác giả Trần Thị Trâm tóm
lược những điều cốt lõi nhất.
Đóng
góp quan trọng của tác giả chính là chỉ
ra các nét khác biệt của văn học dân gian Việt Nam sau 1986. Cụ thể:
-
Khác biệt về tác giả và công chúng tiếp
nhận.
Tác giả đã chính xác khi cho rằng “sự tham gia tích cực của tầng lớp trí thức,
cùng những hỗ trợ hiệu quả từ nhiều ngành khoa học kĩ thuật tiên tiến khác đã
làm cho văn học dân gian hiện đại dù vẫn mang hình thức dân gian nhưng lại hàm
chứa một tư duy nghệ thuật bác học” (tr.49).
-
Sự thu hẹp về nội dung phản ánh.
Xưa kia,
văn học dân gian là một túi khôn, phản ánh mọi mặt về quan hệ con người với
thiên nhiên, con người với con người. Người ta có thể tìm thấy nhiều mặt trong
kho báu này. Đây là nơi “lưu giữ tất cả
những gì là quốc bảo, quốc túy, quốc hồn, là tư liệu lịch sử vô giá, là bức
tranh toàn cảnh phản ánh đầy đủ, chân xác, sinh động và nghệ thuật toàn bộ lịch
sử xã hội và lịch sử tâm hồn dân tộc” ( trang 51). Hiện nay, văn học dân
gian có xu hướng thu hẹp nội dung phản ánh. “Nó có vẻ chỉ quan tâm đến những điều bức xúc còn thiếu hụt trong văn học
viết và các phương tiện truyền thông chính thống” ( trang 54).
-
Sự khác biệt về giọng điệu
Tác
giả Trần Thị Trâm đã so sánh cho thấy giọng
điệu văn học dân gian bây gời đã khác, rất khác. Không còn đơn thanh, không còn ngợi ca, không
còn nghiêm túc. ”Các tác giả văn học dân
gian đã không “viết” như trước nữa và công chúng cũng không “đọc” văn học dân
gian như trước nữa. Văn chương dân gian từ đơn thanh, xuôi chiều, giờ đây
đã trở nên đa thanh và đầy tính chất phản
biện, đối thoại” ( trang 66).
Một
trong những yếu tố làm nên sự khác biệt của giọng điệu, chính là yếu tố “giễu
nhại”. Nhà nghiên cứu đã dành nhiều trang để phân tích về giễu nhại và sự “giải
thiêng”. Không những thế còn phân tích các hình thức “nhại” : “ Nhại cả bài, nhại phong cách, nhại chi tiết.
Nhại từ ca dao đến thơ cổ điển của các bậc tiên bối” ( trang 81). Kèm với
những lập luận, phân tích là hàng loạt những dẫn chứng rất thú vị:
-
Hôm qua có tâm có tài
Hôm
nay thì đã nằm dài trong lao
-
Chị em nổi máu thơ ca
Trên lục dưới
bát tuôn ra tồ tồ
-
Đầy tớ thì đi ô tô
Ông chủ lộn
ngược ba lô nhảy tàu
-
Việt Nam có chuyện lạ đời
Chưa qua lớp
mười đã được giáo sư
-
Ngày xưa trí thức ngạo đời
Ngẩng lên xếch
mắt coi trời bằng vung
Ngày nay trí
thức anh hùng
Khom lưng uốn
gối, coi vung bằng trời …
Rất nhiều các
ví dụ cụ thể, sinh động, tươi ròng sự sống đã làm cho những phân tích, lập luận
càng thêm thuyết phục.
Phần văn học
dân gian thời covid ( từ trang 93 đến trang 128) là phần được viết kĩ, thể hiện
sự bao quát tư liệu và khả năng phân tích, khái quát của tác giả. Chúng tôi
đánh giá cao và coi đây là đóng góp độc đáo, mới mẻ của PGS.TS. Trần thị Trâm.
Chương 2 : Sự hóa thân của văn học dân gian trong các hình thức văn hóa
dân tộc. Đây là một chương dày dặn, nôi dung phong phú,
thể hiện năng lực nghiên cứu tổng hợp, khái quát, và chi tiết của người viết.
Việc chỉ ra văn học dân gian hóa thân vào văn học viết
cho thấy tác giả đọc nhiều và điều quan trọng là nhớ để liên hệ đúng lúc đúng
chỗ. Ví dụ liên hệ gữa câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan ở bài Qua Đèo Ngang với ca dao ( tr. 139-
140). Hay như câu thơ của nữ sĩ Xuân Quỳnh:
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi ( Tự hát) với câu ca dao : Yêu anh cốt rũ xương mòn/ Yêu anh đến thác vẫn
còn yêu anh. ( trang 146).
Có lẽ là giảng viên của học viện Báo chí tuyên truyền,
nên cô giáo Trần Thị Trâm đã dành cho
các sinh viên một chuyên đề quan trọng : Văn học dân gian hóa thân vào tác phẩm báo
chí. Chúng tôi muốn nhấn mạnh đến
tính chất công phu, tử công phu của tác giả khi lấy tư liệu
dẫn chứng cho phần này.
“Trong số 1465
bài báo có sử dụng chất liệu văn học dân tộc thì 816 lần sử dụng để đặt tên cho
tác phẩm báo chí, trong số đó văn học dân gian là 612 lần, chiếm 75 % ( tít
chính là 502 lần, tít phụ là 110 lần).
-
Sử
dụng tri thức văn học ở sapô 132 lần
-
Sử
dụng tri thức văn học dân gian trong nội dung bài báo 567 lần ( 185 lần mở đầu bài báo, 284 lần viện
dẫn trong bài, 98 lần kết thúc bài báo) “ ( trang
167 – 168).
Chưa kể người viết còn theo dõi các chương trình trò
chơi trên Truyền hình như Trò chơi Liên tỉnh, SV 96, SV 2000, Đường lên đỉnh Olimpia, Chiếc nón kì diệu, Hành trình văn hóa, Hãy chọn giá đúng, Ai là
triệu phú, Ai là ai? Tam sao thất bản,
Rung chuông vàng, Chúng tôi là chiến sĩ, Hành khách cuối cùng ( VTV), Đuổi
hình bắt chữ, Chơi chữ, Hộp đen, Rồng
vàng (THHN) ( trang 198) và có những nhận xét, phân tích, đánh giá thấu đáo.
Chúng
tôi đánh giá rất cao công phu của tác giả
và giá trị thực tiễn của chương 2.
Có một
điều lăn tăn nho nhỏ là Nhan đề sách : Văn học dân gian Việt Nam sau
1986. Chương 1. Đặc điểm phát triển của văn học dân gian Việt Nam sau 1986 ( tất cả dẫn chứng đều lấy từ mốc sau 1986). Chương
2 : Sự hóa thân của văn học dân gian trong các hình thức văn hóa dân tộc. ( Các dẫn chứng lại không lấy mốc sau 1986,
mà là không theo giới hạn đó). Nếu như
chương 2 có nhan đề : Sự hóa thân của văn học dân gian sau 1986 trong các hình thức văn hóa
dân tộc thì mới rõ trình tự chương 1 và 2. Để ý thì thấy phần kết luận, 6
điểm ( trang 222 -224), người viết không có dòng nào cụ thể cho chương 2).
Chúng tôi đồ rằng người viết đã sử dụng tư liệu của cuốn Văn
học dân gian trong xã hội hiện đại nên chưa kịp chỉnh sửa cho cân xứng,
thành ra có sự “xộc xệch” này!
Có thể
coi phần
2 như là phụ lục gồm 2 mảng :
Văn hoc dân gian Việt Nam từ 1986 đến cuối 2019 với
500 câu Thành ngữ, tục ngữ, 500 câu ca dao, 150 Truyện cười.
Văn học dân gian từ 2000 đến 2022 ( thời covid) với 60 câu Thành ngữ, tục ngữ, 150 câu Ca dao
, 40
Truyện cười.
Đây
là một tư liệu quý, rất quý cho các nhà
nghiên cứu và bạn đọc nói chung.
Tóm lại, cuốn sách Văn học dân gian Việt Nam sau
1986 của PGS.TS. Trần Thị Trâm là một cuốn sách độc đáo, công phu, giàu
giá trị lí luận và thực tiễn.
Hà Nội, 19 tháng 7 năm 2023
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét