VỚI THẦY TRƯƠNG TỬU
Ninh Viết Giao
Tôi có hân hạnh được làm
quen với Thầy Trương Tửu từ đầu 1953. Hồi ấy có một năm Bộ Giáo dục
chuyển năm học sang năm trời. Học hết lớp 8
cấp 3 năm học 1950-1951, học sinh phải học bổ túc một học kỳ vào cuối năm 1952
để chuyển sang năm trời cũng là năm học. Nhưng chỉ
1 năm, Bộ Giáo dục thấy ngay cái bất hợp lý của nó, lại bỏ năm học là
năm trời mà chuyển lại năm học phải bắc cầu qua 2 nửa
năm trời như cũ.
Tốt nghiệp cấp 3 vào
cuối 1952, chúng tôi lứa học sinh cấp 3 hồi ấy, lại phải học một học kỳ 4 tháng
bổ túc nữa. Nói là học bổ túc song thực tế là ôn lại, đi sâu, mở rộng những bài
đã học theo chương trình trong năm học mà chỉ các môn chính. Có môn thầy giáo
lên lớp hệ thống, củng cố lại những bài đã học theo chương trình rồi ra bài tập
cho học sinh về nhà làm. Còn nói chung, chúng tôi học theo lối tự quản nghĩa là
bạn nào học khá môn nào đó, lớp giao cho về ôn kỹ, nắm vững rồi đến giờ lên
lớp, thuyết trình trước anh em.
Đó là đối với các môn
khác. Riêng môn Văn, học kỳ ấy các thầy dạy văn như thầy Bạch Năng Thi, thầy Vũ
Bình,… đi chỉnh huấn ở Việt Bắc. Hiệu trưởng cấp 3 Nguyễn Thượng Hiền, thầy
Nguyễn Văn Định cho nhân viên văn phòng gọi tôi và bạn Ngô Bá Cao lên phòng làm
việc. Thấy chúng tôi ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì, thầy ôn tồn nói: “Các thầy
dạy văn ở trường ta đi Việt Bắc dự lớp chỉnh huấn dài ngày cả rồi. Các lớp 8 và
9 không có ai hướng dẫn. Nhà trường biết 2 anh học khá, chịu khó ôn bài, hệ
thống bài đã học, tuần một đêm, mỗi đêm 3 tiết, lên lớp hướng dẫn cho anh chị
em”. Nhìn chúng tôi ngơ ngác lộ vẻ lo sợ, thầy nói tiếp: “ Hai anh đừng ngại,
nhà trường đã chuẩn bị cả rồi, có các anh bên Cao đẳng sư phạm như Lại Đức
Khái, Nguyễn Văn Thành, Trần Văn Nhâm,… nhất là thầy Trương Tửu giúp đỡ”.
Biết là không thể từ chối, bạn Ngô Bá Cao nhận phụ trách lớp Chín, tôi lớp Tám. Thế là từ đó tôi có hân hạnh được gặp, được tiếp xúc với thầy Trương Tửu.
***
Như vậy, bên cạnh trách
nhiệm phải đảm bảo đầy đủ mọi công việc của một học sinh lớp 9 bổ túc, tôi còn
phải ôn lại môn Văn lớp Tám, chọn những vấn đề chủ yếu, lên một kế hoạch 16 bài
để hướng dẫn trong 16 tuần. Tôi phải soạn giáo án hướng dẫn những bài mà lúc
bấy giờ là hóc búa đối với trình độ non nớt của tôi, như: ca dao, truyện
kể, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều,
thơ Hồ Xuân Hương, thơ Bà Huyện Thanh Quan, truyện Lục Vân Tiên,… Cứ
mỗi tuần một bài, soạn xong, tôi phải gặp anh Khái, hoặc anh Thành, anh Nhâm,…
để xin các anh góp ý, sửa chữa, bổ sung,… rồi về soạn lại, sau đó mới lên
chợ Đu(1) gặp thầy Trương Tửu, trình bày với thầy để
xin thầy bày dạy, chỉ vẽ cho.
Hồi đó, nghĩ đến Thầy
Trương Tửu, tôi thấy thầy cao vời vợi. Thầy đã viết bao tác phẩm như: Kinh
thi Việt Nam, Nguyễn Du và Truyện Kiều, Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, Văn
chương bình dân Việt Nam,… Thầy đã từng tranh luận với Thiếu tướng
Nguyễn Sơn về Truyện Kiều. Những buổi nói chuyện thơ văn của thầy ở
Hà Nội trước cách mạng rồi ở Cầu Bố, Rừng Thông, Thiệu Hoá, Nông Cống, Thọ
Xuân,… (Thanh Hoá) trong những ngày kháng chiến chống Pháp, khán giả đông
nghịt. Dư luận trong giới trí thức và học sinh khen thầy viết hay, nhất là viết
những bài phê bình văn học mà nói chuyện cũng rất hấp dẫn,… Cho nên lần đầu
tiên từ Ngò lên chợ Đu, tôi phải nhờ anh Nhâm (đã tốt nghiệp CĐSP) đi cùng, để
giới thiệu tôi với Thầy.
Gần trưa chúng tôi đến
nhà thầy. Cả nhà thầy đang ăn cơm. Thật ngạc nhiên là thấy tôi, thầy nói: “Giao
đấy à! Sao đến chậm thế, ngồi ăn cơm luôn thể!”. Thì ra thầy hiệu trưởng Nguyễn
Văn Định đã có thư giới thiệu tôi với thầy. Anh Nhâm nói: “Mình không phải giới
thiệu nữa nhé”.
Hôm đó, không ngủ trưa,
thầy đã tận tình góp ý về kế hoạch lên lớp hướng dẫn của tôi. Rồi thầy bày dạy
cho tôi cách ôn tập, mở rộng bài đầu tiên là “Ca dao Việt Nam” từ bố cục của
giáo án, những điểm cần nhấn mạnh, những khái niệm cần xác định rõ, nhất là phải
bình giảng được một số câu cho hay. Thầy bảo: “Những 3 tiết, tức 180 phút, mà
lại tập trung 2 lớp Tám làm một, hơn 100 học sinh, cậu phải hướng dẫn làm sao
cho học sinh đỡ buồn ngủ dưới ánh đèn lù mù chứ! Vả lại, đây cũng là một cách
tập sự để sau này ra làm thầy giáo đấy!”. Tôi như uống lấy lời thầy, chăm chú
lắng nghe những lời góp ý và bày dạy của thầy.
Đêm đầu tiên đến lớp
hướng dẫn, tôi run lập cập, nhất là lại có cả anh Thành, anh Khái, anh Nhâm
cũng đến nghe. Cùng là học sinh nhưng tại sao tôi lại dám đứng trên bục giảng
dưới mái đình làng Ngò, dù gọi là hướng dẫn song thực ra là lên lớp cho học
sinh. Hơn 100 khuôn mặt tuy dưới một lớp học nhưng đều là bạn học một trường,
một cấp học, tất cả đều chăm chú nhìn tôi: chờ đợi, dò hỏi. Lúc đầu tôi nói không
ra câu, dần dần tôi cũng trấn tĩnh lại. Được thầy góp ý, bày dạy tỉ mỉ, chu
đáo; bài hướng dẫn về “Ca dao Việt Nam” của tôi hôm ấy có nội dung phong phú,
nhiều điểm mới. Các bạn học sinh im lặng lắng nghe, ghi chép. Hết 180 phút, các
anh Thành, Khái, Nhâm chạy lên đứng quanh tôi, khen tôi: “Được lắm. Không ngờ
Giao lại khá đến thế!”.
Từ đó, không kể trời khô
nắng hay mưa lạnh, cứ tuần một buổi, tôi mượn xe đạp của bạn hay cuốc bộ từ Ngò
lên nhà thầy ở vùng chợ Đu nghe lời bày dạy, chỉ bảo của thầy để về soạn lại
bài giảng, lên lớp hướng dẫn cho bạn bè mà là học sinh. Tôi nhớ nhất là những
hôm thầy bày dạy cho tôi về Cung oán ngâm khúc, về Chinh
phụ ngâm, về Truyện Kiều và thơ Nguyễn Công Trứ. Vốn
đã thích văn, nhờ những buổi thầy bày dạy ấy, tôi mê văn hơn, say sưa với môn
văn hơn, sự hiểu biết về văn học được nâng cao hẳn lên.
Hết học kỳ học bổ túc
lớp Chín đầu năm 1953, tưởng là sẽ không hoặc ít được gặp thầy. Nhưng rồi Nhà
nước cho mở tiếp lớp Dự bị Đại học. Vốn khá Toán, tôi nộp đơn
thi vào Khoa học xã hội, trúng tuyển, tôi lại được học với Thầy không chỉ năm
học Dự bị đại học ở xã Dân Quyền bên phải Cầu Kè ở Thiệu Hoá, Thanh Hoá mà cả 2
năm sau, Đại học sư phạm Văn khoa, ở Hà Nội.
Những ngày học Dự bị đại
học ở Thanh Hoá, mỗi tuần thầy lên lớp giảng về Văn học Việt Nam một đêm, không
phải 3 tiết mà 4 tiết. Dưới ánh đèn lù mù, chúng tôi khi ngồi trong đình, khi
ngồi ngoài sân, trước mắt là chiếc bàn xếp, nghe thầy đứng sau chiếc bàn nhỏ,
chẳng cần đèn mà cũng chẳng có bài soạn hay giáo án, sang sảng giảng bài. Lựa
chừng hết một tiết, thầy cho chúng tôi nghỉ mười phút rồi lại giảng tiếp. Qua 3
năm học với thầy, tôi thấy khi nào lên giới giảng bài thầy cũng đứng.
Ở Thanh Hoá, mỗi lần gặp
tôi, thầy đều nói: “Giao không lên chợ Đu chơi, cô Lai (tên vợ thầy) nhắc đấy”.
Trong năm học 1953-1954, tôi có lên nhà thầy vài lần. Nhớ nhất là tháng 10 năm
1953, Thanh Hoá bị lụt to, nước rút, tôi và Hà Thúc Chỉ rủ nhau lên nhà thầy
thăm thầy cô, được thầy cô chiêu đãi bữa cơm ngon lành. Ra về cô lại dúi cho
mấy cân gạo. Cảm động quá, thầy cô thương trò quá, tinh ý quá, hai chúng tôi,
nước mắt lưng tròng.
Sau chiến thắng Điện
Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết, quân và dân ta về Thủ đô. Thầy trò
chúng tôi cũng được về Thủ đô. Tại giảng đường ở đường Lê Thánh Tông, thầy lại
lên lớp, chúng tôi lại tiếp tục được nghe thầy giảng bài.
Hai năm học ở Thủ đô,
nhất là năm thứ ba, hầu như chủ nhật nào 3 chúng tôi (Giao, Chỉ và một bạn bên
khoa Sử là Phạm Cúc) cũng đi bộ hay đi tàu điện đến 53 Hàng Gà, nhà thầy. Học
bổng có hạn, chỉ 13g gạo với mấy đồng bạc, hồi đó được Đảng và Nhà nước cho như
vậy là quý lắm, nhưng chúng tôi đang sức ăn và cũng đang ra sức học, bụng lúc
nào cũng thấy muốn ăn. Phần lớn sinh viên ở nông thôn trong mấy năm học đó, gia
đình đều được “nâng lên” thành phần địa chủ, cha mẹ có cung cấp cho con được
chút gì đâu. Đi học từ Khu Học xá lên đường Lê Thánh tông, ngửi thấy mùi phở,
mùi xôi sáng, thèm lem lẻm, nhưng khốn nỗi trong túi không có tiền. Thầy biết
điều đó, nên chủ nhật nào thầy cũng dặn lên nhà thầy chơi, lên để thầy cô
“chiêu đãi” cho một bữa. Thương 3 chúng tôi, thầy không nói ra điều đó, cứ nói
có việc này, có việc kia, và khi thấy 3 chúng tôi vào nhà, thầy nói như reo
lên: “Ba cậu đến rồi, có việc này đây, hãy nghỉ tí rồi ăn cơm, ta sẽ bàn sau”.
Nhưng rồi chẳng mấy khi thầy bàn bạc với chúng tôi hay nhờ chúng tôi làm việc
gì cả. Có 3 lần, thầy đưa ra vấn đề gọi là bàn với chúng tôi là lần thầy chuẩn
bị viết Giáo trình môn Văn Đại học, lần thầy đưa ra đề cương
viết lại Nguyễn Du và Truyện Kiều, và lần cũng đưa ra đề cương
viết lại “Văn chương bình dân Việt Nam”.
Tôi nhớ nhất mấy lần.
Tết 1955, biết gia đình
tôi “được lên” địa chủ, 26 tháng Chạp, gặp tôi, thầy nói: “Tết này Giao không
về Thanh phải không, mà có về được cũng không nên về. Nhớ lên thầy ăn Tết và
hưởng lộc của Thủ tướng”.
Tôi và 2 bạn cũng hoàn
cảnh như tôi, giữa buổi sáng mùng Hai đến chúc Tết thầy cô, thầy bảo người nhà
dọn cỗ Tết ra, ba chúng tôi ngồi vào bàn. Cùng ăn Tết với gia đình thầy đầm ấm
vui vẻ, nhưng tâm tư tôi cứ nghĩ đến bố mẹ và người thân ở nhà, có gì ăn không
hay là chỉ thắp mấy nén hương với chén nước lạnh trong căn nhà gọi là “quả
thực” của nông dân để lại. Có lẽ 2 bạn cũng có tâm trạng như vậy. Thấy mặt
chúng tôi không vui, thầy nói chuyện dân Hà Nội ăn Tết, các nhà văn viết về Tết
ở Hà Nội trước đó. Thầy cũng kể chuyện tiếu lâm, chuyện đời thường cho chúng
tôi vui. Quá trưa, trời se lạnh, đổ mấy hạt mưa xuân, thầy bảo chúng tôi đừng
đi đâu nữa, lên gác nghỉ, chiều sẽ hưởng lộc của Thủ tướng.
Chiều mùng Hai Tết,
khoảng 16 giờ, chúng tôi xuống nhà, thấy trên cái bàn giữa phòng lớn, một chai
rượu tây, một hộp bánh kẹo, một túi thuốc lá,… đã được bày sẵn. Những bạn thân
của thầy, những người thân trong gia tộc thầy,… đã ngồi sẵn. Thấy chúng tôi đi
nhẹ nhàng xuống nhà, thầy lên tiếng: “Nào các cậu sinh viên ngồi vào ghế đi.
Chiều nay, nhà thầy ăn Tết”. Thầy giới thiệu chúng tôi với khách và người thân
trong gia tộc và ngược lại rồi thầy bảo người nhà mở chai rượu tây, bày bánh
kẹo và thuốc lá ra đĩa. Cầm chai rượu, thầy rót vào ly mỗi người một chút. Rót
hết lượt, thầy cầm một ly, đứng lên nói: “Đây là quà của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng biếu các giáo sư trong dịp Tết, nào chúng ta hãy mừng xuân và chúc mọi
người trong chúng ta mạnh khoẻ. Chúng ta rất cảm ơn Thủ tướng và cũng chúc Thủ
tướng mạnh khoẻ”. Nói xong, thầy đi đến từng người chạm ly. Tất cả những người
ăn Tết ở nhà thầy chiều hôm ấy đều đứng dậy cầm ly để thầy chạm ly và chúc Tết
thầy, chúc Tết gia đình thầy. Chạm ly xong, thầy mời mọi người ăn bánh kẹo và
hút thuốc lá. Ba chúng tôi chỉ nhấp tí rượu và ăn bánh kẹo. Ngoài đường tiếng
guốc khua rộn rã. Trong nhà thầy, những người có mặt nói chuyện cũng rộn rã. Ba
chúng tôi im lặng ngồi nghe.
Một lúc sau cỗ bàn lại
dọn ra, buổi chiều thịnh soạn hơn buổi sáng. Thầy bảo: “Bánh chưng và bánh cốm
Hà Nội ngon lắm đấy, ba cậu ăn thử xem sao!”. Bánh cốm Hà Nội thì ngon rồi, còn
bánh chưng, bánh chưng gói bằng gạo nếp cái quê tôi cũng ngon, song quả thực
bánh chưng Hà Nội năm ấy ngon hơn nhiều.
Chập choạng tối, ba
chúng tôi chúc Tết thầy cô lần nữa rồi chào ra về. Nắm chặt bàn tay chúng tôi,
thầy chúc lại và dặn: “Mai mùng Ba đến nhà thầy nữa nhé! Có biết là mùng ba Tết
là ngày như thế nào không?”. Hai bạn đang lúng túng, tôi đáp: “Dạ thưa thầy,
“mùng Một tết Cha, mùng hai tết Mẹ, mùng Ba tết Thầy” ạ!”. Thầy nói đúng.
Rời khỏi nhà thầy một
đoạn, ba chúng tôi mỗi người đi một ngả. Riêng tôi, biết về đâu trong những
ngày tết, dân Hà Nội hay kiêng cữ này. Phải về Khu Học xá thôi. Trời đã tạnh
mưa, đường phố Hà Nội vẫn ướt át, trời vẫn se lạnh. Tôi bước chầm chậm trên các
vỉa hè Hà Nội, từ Hàng Gà qua Hàng Da tới Hàng Bông đến Bờ Hồ rồi thẳng qua
Hàng Bài, phố Huế, xuống Bạch Mai. Lòng tôi vô vàn cảm ơn thầy đã tạo cho tôi
ăn cái tết đầu tiên xa nhà mà cũng ấm áp, vui vẻ. Thầy là đạo cha đạo mẹ,
thương học trò như con, cảm thông sâu sắc với nỗi lòng của học trò trong cái
ngày đầu xuân mà thầy biết, trong đáy sâu thẳm của tâm can chúng nó chẳng vui
vẻ tí nào.
Đi dọc các dãy phố, mùi
thơm của hương trầm quyện với mùi thơm của hoa huệ từ trong các căn nhà thoang
thoảng đưa ra, tiếng pháo đôi lúc vẫn còn nổ ran hoặc đì đẹt. Nhìn vào các ngôi
nhà, gia đình nào cũng đang sum họp ăn uống hoặc chuyện trò. Một không khí ấm
cúng làm xao xuyến lòng tôi. Mà tôi lại đi lang thang trên các hè phố Hà Nội
giữa cái đêm mùng Hai tết không mấy người qua lại này. Tôi nhớ đến ông tôi, bố
tôi, mẹ tôi, các em tôi, nhớ căn nhà thân thuộc của gia đình tôi,… Đêm nay như
thế nào đây?! Về đến khu Học xá, tôi nằm vật xuống giường, nước mắt đầm đìa,
thật xúc động biết ơn thầy Trương Tửu và vẫn bâng khuâng nhớ đến ông tôi, bố mẹ
tôi, gia đình tôi.
Lần 2 vào tháng 3 năm
1956, Thầy đi tham quan Trung Quốc, mua quà về, thầy cũng mời một số bạn bè và
gọi một số sinh viên thân mến. Hôm ấy, bạn bè sinh viên đông hơn, tôi cũng có
mặt và thấy thầy rất vui. Thầy kể chuyện về những điều tai nghe mắt thấy bên
Trung Quốc, các trường đại học bên Trung Quốc lúc đó, các nhà văn Trung Quốc mà
thầy được gặp như Quạch Mạt Nhược, Lão Xá,… nhất là tướng Nguyễn Sơn. Thầy nói:
“Nguyễn Sơn đang nằm điều trị tại Bệnh viện Bắc Kinh, thế mà cũng “trốn” ra gặp
mình và đoàn Giáo sư Việt Nam. Thấy mình, “lão” phấn khởi lắm, hàn huyên bao
nhiêu chuyện trong cái thời gian ở Thanh Hoá của Giao. Lại uống rượu nữa chứ,
mặc dù “lão” bị bác sĩ cấm ngặt. Tôi hỏi: “Thưa thầy, thế tướng Nguyễn Sơn có
tranh luận với thầy về Truyện Kiều không?”. “Thời gian đâu mà
tranh luận, nhưng “lão” nói: có nhiều ý kiến mới về Truyện Kiều,
hôm nào gặp riêng Trương Tửu sẽ trao đổi”, − Thầy trả lời.
Từ ngày có hân hạnh được
quen biết thầy và được thầy thương yêu, hôm ấy tôi thấy thầy thật sự vui vẻ.
Thầy bảo bọn sinh viên chúng tôi có mặt hôm ấy: “Uống rượu đi, ăn bánh kẹo đi,
các cậu. Rượu Mao Trạch Đông, bánh kẹo Mao Trạch Đông đấy!”.
Lần 3 vào cuối tháng 8
năm 1956. Tốt nghiệp Đại học sự phạm Văn khoa đầu tháng 7 năm 1956, do học khá,
là một trong 10 sinh viên được Ban Giám hiệu giữ lại để làm Tập sự trợ lý giảng
dạy. Nhưng sau nhà trường rút xuống 6, tôi và ba bạn nữa, kẻ ra dạy sư phạm
trung cấp, người ra dạy cấp 3. Trước ngày nhận quyết định của Bộ Giáo dục vào
Khu Bốn lớp chúng tôi được dự một lớp Bồi dưỡng về cải Cách giáo dục ở trường
cấp 3 Chu Văn An, chuyển hệ thống giáo dục phổ thông từ 9 năm lên 10 năm. Sau
đó chúng tôi được Bộ Giáo dục cho đi tham quan ở Hải Phòng, Hòn Gay, Cẩm Phả,
Cửa Ông và vịnh Hạ Long.
Đầu tháng 9/1956, trước
vài hôm lên đường vào Vinh, tôi đến chào thầy và hỏi ý kiến của thầy khi về dạy
cấp 3. Thầy bảo: “ Cậu học khá, lại có năng khiếu và cần cù chịu khó, nếu ở lại
Hà Nội thì đi vào lãnh vực nghiên cứu văn học hiện đại, bây giờ về địa phương
thì đi vào văn học dân gian”. Trầm ngâm suy nghĩ một lúc thầy nói tiếp: “Trong
văn học dân gian có một loại hình chưa ai khám phá, đó là câu đố. Ra dạy cấp 3,
cậu nên dành thời gian để sưu tập và tìm hiểu câu đố”. Rồi thầy gọi với vào
phòng trong: “Bà Tửu ơi, Giao lên chào để vào Vinh dạy học đấy. Bà kiếm gì để
“liên hoan” Giao đi!”. Tiếng cô Lai vọng ra: “Có ngay, có ngay”.
Buổi cơm trưa hôm ấy,
tôi khắc ghi những lời thầy dặn tôi ra đời làm nghề dạy học phải cư xử ăn ở với
đồng nghiệp, với học sinh, với phụ huynh học sinh,… như thế nào. Tiễn tôi ra
cửa, nắm lấy tay tôi, bất giác thầy bảo: “Cải cách ruộng đất đã sửa sai rồi
đấy, qua Thanh Hoá nhớ về thăm gia đình nhé!”. Sững người lại, tôi nhìn thầy,
không ngờ thầy lại chu đáo đến thế.
Nhưng ngày vào Vinh, tôi
không làm được điều thầy dặn. Bởi hành trang của tôi còn có 2 bồ sách và trong
túi chỉ đủ tiền ăn đường. Mãi hơn tháng sau khi được Ban Giám đốc Giáo dục Liên
khu IV bổ về dạy cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng và đã nhận tháng lương đầu tiên, tôi
mới ra Thanh Hoá, về thăm nhà. Ôi! Tâm trạng của người con xa nhà hơn 2 năm,
nay về thăm nhà sau sửa sai Cải cách ruộng đất! Gia đình xuống thành phần trung
nông, ông đã mất, những người ruột thịt còn đó, nhưng… tôi oà khóc.
Về dạy cấp 3 Huỳnh Thúc
Kháng, tôi được Ban Giám hiệu cử làm Tổ trưởng chuyên môn môn Văn. Năm học 1956
- 1957, trên miền Bắc, mỗi tỉnh chỉ có một trường cấp 3, học kỳ I, tháng nào
tôi cũng phải ra Hà Nội họp tổ trưởng chuyên môn môn Văn để phản ánh tình hình giảng
dạy môn Văn và tiếp thu sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục. Họp xong là tôi đến 53 Hàng
Gà thăm Thầy.
Nhưng rồi sau đó, cuộc
đấu tranh chống Nhân văn - Giai phẩm diễn ra, bao lời đồn thổi về thầy và các
thầy Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường,… bị liên lụy như thế nào và
tôi cũng bị ảnh hưởng. Nặng nề lắm!
Một lần ra Hà Nội gặp
bạn Cao Huy Đỉnh học cùng lớp, đang làm Trưởng ban Văn học dân gian ở Viện Văn
học, tôi hỏi về thầy, bạn Cao Huy Đỉnh nói: “Thầy Trương Tửu và một số thầy
khác bị lôi thôi rồi, không được dạy Đại học nữa, Giao chưa nên đến thăm
thầy…”. Tôi biết 2 chữ “chưa nên” như thế nào, “chưa nên” đến thăm thầy, nhưng
tôi vẫn đi qua phố Hàng Gà, đứng nhìn số nhà 53, lòng nặng trĩu tình thương
thầy và nỗi ái ngại cho thầy.
Bao lần khác tôi đều như
vậy. Nhưng có một buổi chiều mùa đông năm 1968, trời lạnh lẽo và xám xịt, tôi
đánh bạo vào thăm thầy. Nhà dưới, nhà trên có nhiều giường bệnh. Thầy đang làm
nghề châm cứu để kiếm sống. Tôi chào thầy và cô. Thấy tôi vào, thầy dừng tay
chữa bệnh cho bệnh nhân, đưa mắt đăm đăm nhìn tôi rồi hỏi: “Giao đấy à? Cậu qua
cửa có ai hỏi gì không? Có ai nhìn thấy cậu không?”. Tôi thưa với thầy là
“không”. Thầy hỏi tiếp: “Lâu nay ra sao? Có “bị” gì không? Tôi thưa với thầy là
“cũng hơi hơi thôi ạ!”.
Trong khi thầy nói
chuyện với tôi bằng giọng vô cùng xúc động thì có hàng chục bệnh nhân nhìn
thầy, kẻ chờ khám bệnh, người chờ chữa bệnh. Cầm bàn tay tôi, thầy nói: “Hôm
nay là ngày khám bệnh và chữa bệnh, Giao thấy đấy, thầy bận lắm. Này nhé, chiều
thứ năm (bởi hôm đó là thứ ba) đến nhà thầy được không?”. Cô Lai dặn với theo:
“Nhớ Giao nhé!”.
Chiều thứ năm, họp xong,
trời vẫn lạnh, vẫn xám xịt lại thêm mấy hạt mưa lâm thâm, tôi vội vã đến nhà
thầy. Thầy đang ngồi cạnh cái bàn mà mấy năm trước thầy trò cùng chuyện trò,
cùng ăn cơm. Tưởng là thầy sẽ kể lại những nỗi đắng cay, gian truân, giông bão
vừa trải qua để thầy phải “bẻ bút”, nhưng không, thầy né tránh, coi như tôi đã
biết cả rồi, chỉ kể qua loa, rồi hỏi về tôi: “Dạy dỗ học trò ra sao? Gia đình
như thế nào? Có sưu tầm nghiên cứu được gì không? Tôi lựa lời thưa với thầy về
công tác giáo dục mà tôi đã đảm nhiệm, một số công trình nghiên cứu về văn học
dân gian mà nghe lời thầy tôi đã biên soạn đã cho xuất bản như: Câu đố
Việt Nam (1958), Hát phường vải (1961), Hát
giặm Nghệ Tĩnh (1963, cộng tác với ông Nguyễn Đổng Chi),… rồi hoàn
cảnh gia đình cũng đã trở nên tốt đẹp. Thầy khen tôi có nhiều cố gắng. Chỉ cô
Lai nói một câu: “Mấy năm qua thầy khổ tâm lắm đấy Giao ạ!”. Chia sẻ sâu sắc
với thầy bao nỗi xót xa của một Giáo sư, một nhà nghiên cứu phê bình văn học
thông minh, tài ba, sắc sảo, đứng hàng đầu của quốc gia, đang ở độ chín mùi,
đang có dự định viết bao công trình về nghiên cứu văn học, thế mà phải “bẻ
bút”, lại né tránh nói lại những nỗi chua xót đó, lòng tôi tê điếng. Sắp đến
giờ tàu chạy, tôi phải ra ga để vào Vinh. Chia tay thầy hôm đó, vừa gạt nước
mắt vừa nghẹn ngào nói mấy tiếng: “Em về thầy nhé, cô nhé!”.
Sau đó tôi có đến 53
Hàng Gà một lần nữa nhưng cửa đóng. Rồi chiến tranh phá hoại miền Bắc do Mỹ gây
ra, bom đạn ác liệt, đường sá cách trở, từ Nghệ An xa xôi, tôi ít ra Hà Nội.
Năm 1975, sau đại thắng
mùa xuân, đất nước được thống nhất, tôi mới ra Hà Nội. Đến nhà thầy thăm thầy,
thấy tôi cả thầy và cô đều reo lên: “Giao đấy à? Mấy năm bom đạn không can gì chứ?
Gia đình ra sao? Vợ con có khoẻ không?”. Cô Lai nói: “Thầy nhắc đến Giao luôn
đấy!”.
Thầy mặc bộ quần áo bà
ba màu nâu nhạt, tóc vẫn cắt kiểu tăng-gô, vẫn để ria mép, trông thấy già hơn
một chút, song giọng nói vẫn sang sảng. Tôi cũng lựa lời thưa với thầy là trong
mấy năm bom đạn, tôi và gia đình vẫn an toàn. tôi khoe với thầy là ở Nghệ An
được ông Bí thư Tỉnh uỷ Võ Thúc Đồng chiếu cố cho một đặc ân là đi rong ruổi
trong khắp làng xã để sưu tầm, nghiên cứu về văn hoá, văn nghệ dân gian trong 4
năm, nhờ đó mà đã ra thêm được mấy đầu sách như: Thơ văn Xô viết Nghệ
Tĩnh, Truyện cổ Thái, Ca dao xứ Nghệ, v.v… Thầy khen tôi giỏi, được
“đi” như vậy là hạnh phúc đấy. Đó là năm 1985. Thầy nói: “Mình đang nghiên cứu
khí công, yoga, dưỡng sinh, Phật học, thực hành luyện tập yoga, dưỡng sinh,…”.
Thầy bày cho tôi mấy phương pháp tập luyện như sáng mai ngủ dậy nằm trên giường
tập các động tác đạp và quay pê-đan xe đạp, kéo gầu nước, thở hít không khí sao
cho có tác dụng.
Năm 1989, được bầu vào
Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, lần nào ra họp tôi cũng đến nhà
thầy thăm thầy, nhất là từ ngày thầy không ở 53 Hàng Gà nữa, xuống C5 Hoàng
Cầu.
Năm 1994, một lần đến
thăm thầy, sau một hồi trò chuyện, thầy nói: “Trong số sinh viên cũ, thầy thấy
Giao cần cù, chịu khó, đã có nhiều công trình sưu tập, nghiên cứu về văn hoá
văn nghệ dân gian được công bố; cậu có thể ra Hà Nội sống với thầy vài năm được
không, ở hẳn nhà thầy, thầy nuôi cho. Gần đây thầy nghĩ được nhiều ý hay lắm về
tục ngữ Việt Nam, những khi thầy trò đàm đạo, trao đổi với nhau, thấy có ý gì
hay, cậu ghi lấy, cố gắng viết cuốn “Tục ngữ, túi khôn của người Việt
Nam”. Tôi thưa với thầy là hiện đang làm Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian
Nghệ An, nhiều công trình đang đeo đuổi. Nhưng sẽ cố gắng thu xếp, ra Hà Nội
lần sau, sẽ thưa với thầy.
Giữa năm 1995, trong
người tôi có dấu hiệu bị bệnh hiểm nghèo, ra bệnh viện K Hà Nội kiểm tra rồi
đến thăm thầy, thầy ái ngại cho bệnh tình của tôi và bày cho cách chữa bệnh.
Nhưng lúc này tôi cũng ái ngại cho sức khoẻ của thầy vì mắt thầy đã kém, tai
cũng đã nghễnh ngãng, nhiều bữa phải ăn cháo. Năm 1996, 1997, 1998, cứ 3 tháng
ra Hà Nội vào bệnh viện K kiểm tra bệnh tình và lấy đơn thuốc về điều trị, là
tôi đến thăm thầy. Ngày 20/11/1999, ngày Nhà giáo Việt Nam, kiểm tra xong, tôi
vội vàng đến thăm thầy thì thầy đã yếu lắm rồi, bảo cô Tâm vắt cho cốc nước
cam, thầy uống mãi mới hết. Nói chuyện một hồi, thầy nắm chặt tay tôi, thì thào
nói: “Mình yếu lắm rồi Giao ạ! Có lẽ đận này khó qua khỏi”. Rời nhà thầy hôm
ấy, mươi hôm sau tôi lại phải ra Hà Nội nằm điều trị nội trú tại bệnh viện K.
Tôi có biết đâu ngày 16/12/1999, ngày tôi phải lên bàn mổ cũng là ngày thầy qua
đời. Thương thầy quá, ngày hôm sau, y tá thay băng xong, tôi trốn ra khỏi bệnh
viện, thuê xe ôm xuống Hoàng Cầu thắp nén tâm hương viếng thầy. Gặp anh Trịnh
Hiệt, anh Trịnh Hiệt biết tôi mới mổ xong, không cho tôi đến gần linh cữu thầy,
anh nói sẽ thay Giao thắp hộ cho nén tâm hương, Giao ngồi ngoài cổng thôi.
Tôi ngồi ngoài cổng, bao
người đến viếng thầy rồi ra, riêng tôi ngồi mãi, đeo đuổi một ý nghĩ: cuộc đời
của thầy, một thiên tài trong làng Văn Việt Nam, nhưng như thân phận của không
ít trí thức cổ kim, trải nhiều sóng gió và bất hạnh. Cái vinh quang của thầy là
thầy có bản lĩnh đã vượt qua được bao bất hạnh để lại nhiều công trình sẽ đứng
mãi với thế gian. Không rõ những người đầy đọa thầy và những trí thức khác như
thầy có ân hận không, có phải trả giá không? Trước khi thanh thản sang thế giới
vĩnh hằng, thầy không nghĩ điều đó, nhưng tôi và một số bạn như tôi nghĩ điều
đó. Riêng tôi, tôi vô cùng ân hận một điều, là cái chiều mùa thu năm 1994, thầy
bảo tôi ra Hà Nội ở với thầy để cùng biên soạn cuốn “Tục ngữ, túi khôn
của người Việt Nam”. Thầy nói như là trối trăng, gửi gắm, nhưng tôi đã
không thực hiện được. Cả suy nghĩ của thầy về nhóm Hàn Thuyên và Nhà xuất bản
Hàn Thuyên, không biết thầy có kể cho ai nghe để người ấy biên soạn một công
trình mà thầy đã tâm đắc chủ trì từ 1941 đến 1946 không? Rồi nữa, về nhân cách,
tôi thấy thầy vững và thẳng như cây tùng cây bách, còn tôi có lúc hèn nhát, ra
Hà Nội qua nhà thầy mà không dám vào nhà thầy trong lúc thầy rất cần gặp gỡ
người thân để ngỏ bầu tâm sự, thì tôi chỉ lảng qua, nhìn ngó cái số 53 Hàng Gà,
vì đang cố gắng phấn đấu vào Đảng. Xin thầy hãy thứ tha. Thầy đã đi vào cõi hư
vô, nhưng tôi vẫn mường tượng thấy Giáo sư Trương Tửu, đầu đội mũ phớt, tay cầm
ba-toong, ngẩng cao đầu, hiên ngang đi giữa sân trường Đại học ở phố Lê Thánh
Tông và giữa đường đời./.
Vinh, tháng 10 năm 2008 N.V.G.
(1) Thầy Trương Tửu từ Hà Nội cùng cả gia đình
đi kháng chiến vào Thanh Hoá, lúc đầu ở Quần Tín (Thọ Xuân) với một số văn nghệ
sĩ, khi dạy Dự bị đại học chuyển về vùng chợ Đu (Thiệu Hoá).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét