BẾP TRÈM
(Tản văn)
ĐƯỜNG VĂN
Đông tây - kim cổ, ai cũng biết vai
trò quan trọng, không thể thiếu của cái bếp đối với đời sống vật
chất, tinh thần của mỗi gia đình. Nhìn vào bếp, qua một bữa ăn
thường nhật, người ta có thể đánh giá khá chính xác mức sống, cá
tính, sở thích, thậm chí gu văn
hóa thẩm mỹ và ẩm thực của bà nội tướng - chủ bếp, chủ nhà. Bếp
là nơi quan trọng nhất, sau ngôi nhà chính, sau gian (phòng) thờ, gian
(phòng) ở và gian (phòng) khách. Bếp, là nơi thỏa mãn nhu cầu tất
yếu đầu tiên - nhất khoái / tứ
khoái trong đời sống con người: ĂN. Bếp, hiển nhiên dùng để nấu
ăn, chuẩn bị bữa ăn, cũng có thể là nơi ăn uống của mỗi gia đình
hằng ngày. Nhà ai mà chẳng có bếp! Bếp phổ biến còn hơn cả chuyện
thường ngày ở huyện! Nhưng chính ở đây, nếu bạn để ý tìm hiểu kỹ
một chút, sẽ thấy không ít vấn đề lịch sử, văn hóa, xã hội, kinh
tế, kỹ thuật, mỹ thuật ẩm thực,
vô cùng phong phú, đa dạng và thú vị không chỉ về không gian, của mỗi
đất nước, dân tộc, mỗi vùng miền, thậm chí mỗi dòng họ, mỗi giai
tầng, mỗi gia đình rất khác nhau, mà theo thời gian (lịch đại), từng
thời gian, mỗi thời đại, giai đoạn lịch sử xây dựng, kiến trúc bếp,
cũng mỗi thời một vẻ, từ đơn sơ, nghèo nàn, cổ lỗ đến sang trọng,
lịch sự, văn minh, tối tân hiện đại…
Tôi hoàn toàn không đủ trình độ và cũng
không có tham vọng tìm hiểu, khảo cứu đề tài BẾP ở những phạm vi to
lớn, bao quát, vĩ mô như thế. Trong bài tản văn nho nhỏ này, chỉ xin trò chuyện đôi điều cảm nhận,
gợi lại vài hồi ức về cái bếp nhà nông làng Trèm ngày xưa cho đến
cái bếp Trèm quê hương tôi thời @
đổi mới, ngõ hầu cùng bạn đọc tiêu bớt cái oi ả giữa mùa hè viêm
nhiệt.
Bếp truyền thống của nhà Việt ở
nông thôn miền Bắc, miền Trung, nói chung, thường được đặt theo hướng nào? Đại thể:
-
Vuông góc với
hướng nhà chính.
-
Theo hướng nhà
chính (nối với 1 đầu hồi hoặc lấy 1 gian buồng nhà chính làm bếp);
-
Đối điện với
nhà chính.
Bếp thường
có 1 gian; đôi khi cũng có thể từ 2 – 3 gian (thêm chức năng nhà ngang,
nhà ăn, nhà kho…). Bếp có thể liền với cổng.
Bếp nhà
thường dân hầu hết là nhà cấp 4, 1
tầng, mái chảy, có dải hiên hẹp hoặc không hiên, có cửa ra vào,
cửa sổ, có hoặc không cánh cửa…)
Bếp nhà nông dân làng Trèm xưa, trải các thời kỳ chiến tranh loạn lạc, thời
hòa bình hợp tác, thời bao cấp khó khăn…trong đó có nhà tôi, nay
bình tâm lần lần nhớ lại, vẫn thấy hằn trong trí nhớ những ấn
tượng kinh khủng, ghê người!
Chật
chội, bẩn thỉu, ẩm thấp, lộn xộn, luộm thuộm, bừa bãi… Bếp đã nhỏ
hẹp, lại dựng sát cạnh chuồng trâu, bò, lợn, chó, gà, cống, rãnh
tù đọng. Từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ mái (ngói, lá,
tranh, rạ) dui, mè, hoành, xà ngang, dọc, (gỗ, tre) đến tường (gạch,
đất, vách phên) đều bắt bám những lớp mồ (bồ) hóng đen - nâu sẫm lưu niên, dày đặc, tỏa mùi hăng
hắc (Quét làm phân bón ruộng rất tốt). Đi lại, đứng ngồi, bưng bê
không quen, không khéo léo, gượng nhẹ sẽ dễ dàng ăn ngay 1 cục xôm
xốp, mềm mềm đen sì vào đầu, vào vai, vào bát canh đang bốc khói,
vào đĩa cá rô vừa rán ròn thơm lựng… Lúc ấy thì chỉ còn biết lạy
trời mà chuẩn bị ăn mắng đoảng, ăn roi phạt của bố (mẹ)!
Hầu
như căn bếp nào ở làng tôi cũng vậy, kể cả mấy gian bếp ngói của
vài gia đình khá giả từ trước cách mạng, như bếp nhà cụ T, cụ H,
cụ C…cũng chẳng hơn gì lắm. Vì không gian diện tích bếp nhỏ hẹp (độ
từ dăm đến vài chục mét vuông mà lủng củng, lỉnh kỉnh đặt, kê dụng
cụ, đồ đạc đủ thứ bà rằn: chạn bát đũa, cối gạo, cối xay, chõng
tre, mâm ăn, vại dưa, vại cà, lọ mắm tôm, lọ mẻ, chai dấm, hũ muối…Góc
để rơm, rạ, rác, củi xếp.chất ngàn ngật lên tận áp mái. Góc khác lổng chổng cả những cày bừa
cuốc, xẻng, vồ, quang gánh, quang cặp, liềm, hái, thúng mủng, dần,
sàng, rổ, rá… Bếp kiêm luôn kho chứa đồ.
Ấy vậy nhưng
những đêm mùa đông rét mướt, rủ 1, 2 đứa bạn cùng tổ, cùng xóm đến
học nhóm chung tại bếp, cùng ăn vài bắp ngô, củ khoai nướng (luộc),
nắm bỏng rang rồi ôm nhau ngủ luôn trong ổ rơm mùa thơm thơm ngay cạnh bếp,
bên ang cám lợn đầy phè đang sôi âm ỉ, lục bục và chú mướp cứ quấn
lấy người… vẫn là 1 cái thú khác hẳn ngủ võng, ngủ giường, ngủ trên
nhà.
Nền bếp đa
phần là đất nện, thấp tè. Chỉ cần mưa một trận lớn là nước ngoài
sân đã láng lai, bòng bõng dâng lên tận lưng lửng chai tương, chai mước
mắm, bập bềnh ngang ngăn cuối chạn tre. Bữa tối hôm ấy cả nhà phải
ăn đứng. Trong ánh sáng vàng vọt, yếu ớt hắt ra từ ngọn đèn dầu Hoa
Kỳ đặt trên thành tường bếp, mâm cơm tuềnh toàng đĩa rau muống luộc,
bát cà muối, đĩa tép rang, đĩa đậu phụ kho tương, bày trên cái mâm
gỗ mọt, thủng, đặt luôn lên tầng chạn thứ 2. Từ ông bà, bố mẹ đến
anh chị em, con cháu, mỗi người tự xới 1 bát cơm độn đỏ khé ngô mảnh
hoặc khoai khô, sắn khô, mì sợi…gắp 1 đũa rau muống, chấm qua bát
tương nhà làm, bước ra sân và, ăn
cho thoáng. Hết thức ăn lại vào mâm gắp tiếp. Hết bát, lại mở vung
nồi, đơm tiếp. Mấy đứa trẻ con vừa ăn vừa cười đùa chí chóe: - Con cua này của chị Hai béo hơn của em!
- Úi giời! Mẹ ơi! Anh Ba gắp cặp
díp những 2 miếng đậu liền! Ông bố lừ mắt nhìn cậu con trai đang
lảng ra phiá góc sân, với vẻ sợ hãi, xấu hổ. Bà mẹ gắt khẽ: - Thôi nào! Có ăn mau đi để mẹ còn dọn, rửa, rồi còn nấu cám
lợn cho kịp không? Ông nội, bà nội ngoài bảy mươi vừa đủng đỉnh,
trệu trạo nhai vừa khẽ lắc đầu cười, nhìn nhau, rồi ngó đăm đăm ra
ngoài trời đang sầm sập tối… Đó là một trong những bữa ăn tối ngày
mùa chiêm tháng năm ở nhà tôi hồi những năm 60 thế kỷ trước. Trong
gian bếp mới xây thu gọn lại còn có 1 gian thấp, hẹp (vì bố tôi phải
bán ngôi nhà ngang – bếp ngói 3 gian để trang traỉ nợ nần). Sự nghèo
túng, kham khổ, hiện rõ từng xăng ti mét! Nhưng không khí gia đình làm
ruộng thuần nông chất phác, khẩn trương mà đầm ấm, vui vẻ lạ.
Hằng ngày,
để chuẩn bị cho bữa ăn sáng cả nhà, bà nội hoăc mẹ tôi dậy rất sớm
(khoảng 4 – 4h 30) nấu cơm, cháo hoặc om ngô, luộc khoai. Thức ăn quanh
quẩn chỉ có tương (sau này thêm chai nước mắm), lọ vừng rang), bát dưa
chua, bát cà muối (hoặc kho tương), nồi chạch khoai (búp khoai sọ kho mẻ bùi nghìn nghịt!)… Riêng ba
anh em tôi được bố mẹ cho hưởng tiêu chuẩn bồi dưỡng ưu tiên. Sáng nay,
quả trứng gà trưng, sáng mai vài miếng tóp mỡ dai ỉu hay thìa mỡ
nước rưới thêm vào bát cơm. Thế mà ngon đáo để! Trẻ quê háu ăn, và
và nuốt nuốt cứ như rồng leo, rồng
cuốn! Lại nhớ câu thơ Nguyễn Bao: Những
bữa cơm đèn/Dậy từ mờ đất/Gọi
nhau xin lửa, qua rào! (Hoa chanh). Diêm hết, bật lửa chưa mua được
đá. Mồi rơm con cúi đã lụi từ
lúc nào! Không cầm đèn đi xin lửa hàng xóm thì lấy gì mà thổi cơm?!
Quang cảnh cả nhà ngồi quây quanh mâm cơm lót dạ đạm bạc, nóng hổi
thật ấm áp nghĩa tình ruột thịt. Vừa ăn, vừa nghe bố tôi phân công
công việc trong ngày. Từng câu rành rẽ, giọng nói nhẹ nhàng. Nhưng mỗi
câu là một mệnh lệnh dứt khoát như đã được ông chủ nhà tính hay lo, tính
toán, cân nhắc kỹ từ đêm:
- Hôm nay chủ nhật: Cả Tạo phụ bố bẻ ngô ở dưới Kiếu. Hai Bê cắt cỏ.
Ba Xê chăn bò. Còn mẹ mày thì gánh phân đổ ải kín mảnh Đồng Gia
nhá. Sau gánh cuối, xuống cùng bố con tôi đẩy xe về. Còn bà nội, nhờ bà thổi cho chúng con bữa cơm
trưa. Sợ đợi đến lúc nhà con về thì muộn quá! Ông nội rảnh tay thì bóc đỡ ít bẹ ngô, được bắp
nào hay bắp ấy.
Nhoáng
cái, bữa sớm đã xong. Hối hả người nào việc nấy, tỏa ra khỏi căn
bếp ám khói, cũ kỹ thoát thai từ cái nhà ngang của các cụ để lại.
Nếu tính theo
chiều cao từ trên mái trở xuống, có thể nói cái nhà thông khói (nhà khói) con con là một trong những kiến trúc khá độc đáo của
những nhà bếp xây gạch ở làng tôi. Thường là người ta xây thêm 2
(hoặc 1) đoạn mái phụ cao hơn so vơi mái chính khoảng 0, 45 – 0, 50 m)
cũng lợp ngói ta xếp hình vẩy cá, cũng làm bờ, nóc ốp ngói bò
hoặc gạch lục… như mái chính . Ngày 2, 3 lần, đặc biệt là buổi
chiều muộn, từng tốp nông dân làng Trèm vác cuôc, vác vồ hoặc dong
trâu bò chậm rãi qua dốc Cầu Sông. Ngắm những làn khói xanh cuồn cuộn bốc lên từ những nhà khói,
những đầu đốc mái tranh, mái rạ, vượt qua lũy tre, lan tỏa vào trời
chiều đang ngả nắng, người nông dân làng Trèm, sau một buổi làm lụng
vất vả, bỗng thấy thơ thới, nhẹ nhõm hẳn, biết rằng một bữa tối
sum họp cả nhà đang chờ.
Nơi đun nấu
và dụng cụ làm bếp thời ấy cũng khá độc đáo trong sự nghèo nàn,
dân dã. 2 – 3 bộ vua bếp (mỗi bộ 3 ông) to, nhỏ nặm bằng đất thó
(còn gọi là ông đầu rau), ngày
càng rắn câng như đinh vì lửa nung thường nhật; 1 - 3 bộ kiềng gang
đúc 3 chân, châu đầu thì thầm trò chuyện cả đời với nhau không chán.
Chuyện càng rôm rả hơn trong ngọn
lửa thổi nấu cơm, canh, hoặc đàm tâm đối diện trong thời gian giữa
bữa ban ngày hay nửa đêm chờ đợi đội nồi. Nhiên liệu đun nấu của nhà
nông làng Trèm chủ yếu là rơm, rạ, cây ngô, điền thanh phơi khô, lá
nhãn, lá vải, lá sấu, lá bàng… ngoài chùa (đình) khô rụng, được quét
vun, lèn vào bao tải, thúng lồ, đưa dần vào bếp. Mỗi bữa nấu ăn
thật vất vả trong lửa than, bụi
khói mù mịt. Chiếc que đun bếp, cời tro, than bằng thanh tre (sắt)
khơi, gạt liên tục, để giữ lửa cháy đều theo ý muốn. Vào những đợt
mưa dầm hay bếp dột thì thật khốn khổ. Cứ là chổng mông, phồng
miệng mà thổi. Khói cay làm chảy nước mũi, nước mắt giàn giụa, toét
nhèm. Nhất là lúc đứng vòng rơm, rạ bồi
quanh nồi cơm (6 – người ăn, khoảng 3 kg gạo – độn) từ 2 – 3 nút. Thật không
khác gì cảnh Đại Thánh Tôn Ngộ Không múa quạt ba tiêu giả trước ngọn
Hỏa diệm sơn rừng rực lửa khói. Càng khơi, càng vun, lửa càng bùng
cao, dữ dội, phần phật, rừng rực! Thổi xong nồi cơm, nấu chín nồi
canh thì mồ hôi mồ kê ròng ròng như tắm, nhễ nhại, bừng bừng. Lại
phải chạy ra bể, dội ào nhanh vài chục gáo nước mưa tắm qua, trước
khi vào bếp ăn cơm. Sau này, nhiều nhà kiếm, mua được củi gỗ, mùn
cưa, trên Kho 3, than tổ ong…Bếp đun
nấu mới làm bằng những chiêc thùng lò mini cải tiến bằng sắt tây,
đất chịu lửa. Nhóm bếp, quạt bếp cũng vẫn chưa tránh được khói mù,
độc hại, nhưng so với thời đun bếp rác bẩn thỉu, bất tiện, mất vệ
sinh trước đó… đã sướng hơn, tiện ích hơn nhiều lắm! Các cô giáo, bà
giáo nội trợ đã có thể vừa trông lò vừa đọc sách, báo, học bài,
soạn bài hoặc tiếp bạn ghé chơi mà cơm vẫn dẻo, canh vẫn ngọt. Vẫn
được chồng, con khen đầu bếp loại…siêu!
Bếp Trèm thời @ như thế nào?
Từ những
năm 90 vắt sang hai thập kỷ đầu thế kỷ mới, trong phong trào điện khí
hóa, đô thị hóa nông thôn, cùng với những tòa nhà kiên cố, những
biệt thự khang trang, xinh xắn hoặc đồ sộ 2, 3, 4, 5, 6 tầng với đầy
đủ tiện nghi, hiện đại, rầm rộ mọc lên khắp các thôn xóm làng Trèm
cùng những phòng bếp - công trình phụ mới mẻ, văn minh, tiện ích…
tương ứng. Sạch bong, sáng loáng, bền, nhẹ. Bếp điện, bếp ga, bếp từ
cảm ứng, lò vi sóng, tủ lạnh lớn 3 buồng, nhiều ngăn; quạt thông
gió, ống thông khói, chạn gỗ quý, inốc, xoong, nồi áp suất, máy xay thịt, hoa
quả, bát đĩa, muôi, thìa, sứ cao cấp Giang Tây, Nhật Bản, đũa gỗ mun,
kim giao quý hiếm, dao, thớt đủ loại, gia vị đủ món, máy rửa bát …Các
khoảng tường trống điểm xuyết treo vài bức tranh tĩnh vật hoa, quả, tranh
phong cảnh nhẹ nhàng, tao nhã hoặc những bức ảnh màu trẻ con trong
nhà phóng to. Đứng nấu, ngồi nấu, tùy ý. Chỉ cần nhẹ nhàng xoay
nhấn 1, 2 nút điều chỉnh hoặc phẩy ngón tay lên màn cảm ứng. Bếp
không khói, không nóng mà nhiệt độ khi cần có thể lên tới vài trăm
độ C, lại rất an toàn. Lavabô 2 vòi nước nóng, lạnh điều hòa như ý. Bàn
ăn bầu dục, bàn ăn tròn, xoay mặt kính, chổi lau nhà, máy hút bụi
sịn…Nấu nướng một bữa ăn, chuẩn bị một bữa giỗ, bữa tiệc đãi
khách, đón bạn… không mất 1 giọt mồ hôi vì hệ thống quạt trần, quạt
cây, quạt bàn… êm ru, vù vù. Vừa thổi nấu, chuẩn bị bày biện, sắp
xếp hoặc vừa ăn uống vừa nghe nhạc, xem ti vi, vừa gọi, xem mobil, buôn
dưa lê…nếu thích. Bây giờ mỗi bữa ăn của hầu hết các gia đình nông
dân, công nhân, cán bộ, giáo viên, thương nhân…ở làng Trèm, các ông chủ,
bà chủ hay có thói quen nhâm nhi 1 vài li bia Hà Nội, chén rượu
trắng, rượu màu ngon, bổ trong căn phòng ăn, phòng bếp sáng choang, cao
rộng, dưới ánh đèn nê ông dìu dịu,… Kể ra như vậy, thực sự đã hơn
nhiều cảnh sống của các gia đình điạ chủ, tư sản, quan lại xưa hay
gia đình giàu có ở nước ngoài, mà trước đó ít năm, với dân Trèm cơ
chỉ, tằn tiện trong nghèo khổ, thiếu thốn chỉ là những mơ ước xa
vời, viển vông.
Nhưng bây
giờ giấc mơ huy hoàng đã thành sự thật bình thường hằng ngày thì
cũng bắt đầu có chuyện. Bởi quy luật tâm lý, luật đời thường là:
con người thích ứng rất nhanh với cuộc sống giàu sang, sung sướng, cũng
dễ nhanh chóng tập nhiễm thói ích kỷ, đài các, sỹ diện, rởm hợm
của kẻ nhiều tiền, vị của. Người ta thường rất hay quên cái thuở
hàn vi, nhọc nhằn, cơ khổ chưa xa, quên cái bếp lúp xúp khói hun nhèm mắt cháu thưở nào…
Điều đó không có gì khó hiểu nhưng cũng thật đáng trách, đáng cười!
Bếp Trèm
với người Trèm, làng Trèm hôm nay lại đã và đang đặt ra không chỉ
với những chị em, bà con, cô bác nội trợ đảm đang, vén khéo chuyên
nghiệp mà còn đặt trước tất cả chúng ta biết bao vấn đề mới tươi
vui, phấn khởi, nhưng cũng không kém phức tạp, phiền toái, (chẳng
hạn: xuất hiện những thói quen mới: lười đi chợ mua bán thực phẩm,
thức ăn hằng ngày, lười vào bếp nấu nướng, ưa dùng đồ ăn làm sẵn, thức
ăn đóng hộp trong siêu thị; ngày nghỉ, cả nhà đi ăn hiệu, thuê người
phục vụ nấu ăn, vệ sinh nhà, bếp…Không ít bà, cô nội tướng chăm chỉ
xưa, nay quan niệm, phải tự mình giải phóng mình thoát khỏi cái ách
nặng nội trợ, làm bếp để tăng cường đi sopinh, tu sửa dung nhan cho
bằng chị bằng em!...Các cụ ngoại thất thập trở lên, mỗi lần hội
làng được biếu bánh chè kho, phẩm oản xôi, mỗi dịp tết nhất, bên mâm
cỗ đơm 4 bát, 6 đĩa, thời trân như cổ tục, móm mém nhấm nhót miếng
giò lụa, chả quế, nem chạo thính… vốn là những đặc sản ẩm thực
truyền thống của làng Trèm, vùng Trèm – Vẽ, lại hay lắc lắc mái tóc thưa, bạc mà
thở dài nhẹ nói lời nhận xét
cũng nhẹ như gió thoảng: - Các món ấy bây giờ chả biết vì sao không thể nổi vị Trèm
như ngày xưa được!?) Vấn đề tế nhị nhỏ mà không nhỏ ấy ít nhiều liên
quan đến cái bếp và văn hóa bếp núc, ẩm thực, đòi hỏi
và thôi thúc mỗi cá nhân, cá thể, mỗi gia đình, dòng họ, cơ quan
đoàn thể cần suy ngẫm một cách nghiêm túc và tỉnh táo để giải
quyết từng bước, tháo gỡ từng khâu, trên con đường đổi mới, đô thị
hóa nông thôn hiện nay ở làng Trèm – xã Thụy Phương.
Những căn phòng bếp – bữa ăn, gắn liền với
lối sống và phong cách ẩm thực văn hóa – hiện đại ở làng quê
ngàn năm văn hiến, như làng Trèm, trong thời điểm hiện nay, hiểu theo
đúng nghĩa thực sự của những khái niệm này, tôi cho rằng, may lắm
mới đạt khoảng 50% mà thôi!. /.
Đêm 6 – 7 – 2013. ĐV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét