Đường Văn
TỨ KHOÁI
(Phiếm đàm tản mạn)
Có
ăn mới nên vóc người,
Ngủ ngon
mới mạnh sức chơi trên giường.
Mây
mưa: nhất dạ đế vương!
Ỉa
đầy một bãi: nhẹ đường phao câu!
Đời
người dài ngắn khác nhau,
Chỉ
mong tứ khoái làu làu hanh thông!
ĐƯỜNG
VĂN – HOÀNG DÂN
Hoàng Dân
1. Bàn chung
Cho
đến nay, không biết đã có ai có thể
trả lời một cách chính xác về nguồn gốc, xuất xứ, tác giả đầu tiên của khái
niệm này?
Tứ
khoái, một trong những nhân sinh
quan dân gian cổ truyền, lâu đời nhất, đặc sắc, độc đáo cũng vào
loại nhất của người Việt, và theo chúng tôi, còn có thể đúng với toàn thể loài
người nói chung, trên trái đất, xưa và nay.
Tứ
khoái được diễn tả bằng 4
động từ hóa danh từ thuần Việt, như 1 câu tục ngữ ngắn gọn, cô đúc như một
công thức khoa học tự nhiên sinh học, tâm lý học, có sức mạnh lan tỏa của 1
truyền ngôn, 1 chân lý thực dụng, giản dị, có vẻ rất dân dã, tầm thường, dung
tục mà vô cùng ý nghĩa, cao quý, thiêng liêng.
Mối
quan hệ giữa 4 thành phần với nhau của tứ khoái được sắp xếp hết sức
lôgich, tuân theo quy luật tồn sinh và phát triển của muôn loài, không thể
thiếu bất kỳ 1 yếu tố nào! Nếu chỉ thiếu 1 trong tứ khoái, cơ thể sống
hài hòa sẽ có nguy cơ mất cân bằng sinh học, quá trình trao đổi chất của cơ thể
với môi trường bên ngoài bị trục trặc, rạn nứt và phá vỡ, dẫn tới bệnh tật và
có thể…xuôi cẳng sáo, về với ông bà, tổ tiên! Nếu chẳng may mất hết tứ khoái,
thì hiển nhiên chính là bất hạnh vào loại khủng khiếp nhất! Khi đó, cuộc sống
con người không bằng con vật, chỉ như cây cối, sỏi đá vô tri, sống như chết, vô
nghĩa!!!
Đó là điều chắc chắn và dễ hiểu. Về thứ tự sắp
trước sau của tứ khoái, cũng rất quan trọng và chặt chẽ, không ai có
thể đảo, đổi tùy tiện, chủ quan. Nếu vi phạm, ắt sẽ đưa tới những hậu quả
nguy hại khôn lường.
(Thật
ra, theo chúng tôi, tứ khoái chỉ là khái quát chung 4 nhu cầu tạo khoái
cảm thiết yếu, cơ bản nhất, trong đời sống con người. Với cụ thể từng cá thể
người, theo từng lứa tuổi, từng môi trường sống và nghề nghiệp…trong thực tiễn,
còn không ít những nhu cầu tạo khoái cảm khác, cũng không kém phần quan trọng
và bức thiết. Con người thời hiện đại @, ngoài tứ khoái, còn cần tới ngũ,
lục, thất, bát… n khoái khác. Một anh bạn tôi nhất quyết và
luôn hăng hái muốn góp vào tứ khoái 1 khoái
thứ 5, mà anh cho là khoái đặc biệt, không bút nào tả xiết: Khoái Tắm!
Trong thực tế, con người đã, đang và sẽ tìm mọi cách để săn tìm, tạo cho mình
sở hữu, hưởng thụ, thưởng thức những khóai cảm ngày càng tinh vi, phức tạp,
muôn vẻ muôn màu hơn. Tuy nhiên, điều đó nằm ngoài phạm vi chú ý của chúng tôi
trong bài này.)
Xét
cho cùng, chung quy, tứ khoái vẫn là 4 khoái gốc, như tứ trụ kình
thiên của mỗi cá thể người, góp phần làm nên nhân loại. Nhưng quan trọng hơn cả, và cũng lý thú hơn cả, chính
là trên bình diện ý nghĩa đạo đức, thẩm mỹ - thuộc lĩnh vực tinh thần
thượng đẳng. Tứ khoái luôn được hanh thông, đầy đủ, dồi dào, viên mãn sẽ
tạo ra niềm thống khoái, thỏa mãn, sung sướng, hạnh phúc vô hạn trong cuộc sống
đời người. Phải chăng đó là một trong những ân sủng vật chất – tinh thần vô cùng
to lớn mà đấng Thượng đế chí tôn ban cho loài người, chủ nhân vĩnh viện trên hạ
giới? Kho tàng ca dao, tục ngữ, truyện tiếu lâm dân gian Việt Nam truyền miệng
về tứ khoái rất phong phú, tục – thanh hài hòa, sắc nhọn, hóm hỉnh, mang
chở những triết lý nhân sinh khỏe lành, sâu xa, lạc quan vui sống của
người Việt. (Văn học viết bác học, cả cổ - trung đại và hiện đại, có lẽ là sự
thụt lùi so với văn học dân gian, về đề tài này, ngoại trừ trường hợp Hồ Xuân
Hương?!)
Dưới
đây, nhân mấy ngày nghỉ Tết Tây thong thả, chúng tôi xin được bàn phiếm tản
mạn ít nhiều về tứ khoái, theo trình tự từng yếu tố một,
chuyện đời thường hòa với chuyện văn chương, ngôn ngữ, trên cơ sở cảm hiểu còn
rất nông cạn, sơ sài của người viết.
- Nhất khoái: ĂN
(*
Khác hẳn các mục còn lại, đều được viết chung, mục 2 này chúng tôi chủ trương
viết tách thành 2 ý kiến nối tiếp nhau: 1.
ĐV bàn, 2. HD tán về 1 trong những chủ đề thú vị nhất, đa dạng nhất và
thống khoái nhất: ĂN, ngõ hầu mua vui cùng bạn đọc. Bởi trình bày như vậy, một
mặt, sẽ vẫn đảm bảo ý tưởng chung thống nhất, mặt khác, không làm mờ nhòa những
thức nhận, cảm luận riêng và cách thể hiện riêng của từng người. ĐV – HD). 22 –
1 – 2015
1. ĐƯỜNG VĂN bàn
Không
phải ngẫu nhiên, ngừơi xưa lại xếp Ăn lên vị trí đầu bảng trong tứ
khoái. Ăn là quá trình nạp thức ăn từ bên ngoài vào cơ thể từ
miệng, qua thực quản, tới dạ dày (hệ tiêu hóa). Ăn giúp cho cơ thể tồn
tại và phát triển, sống và hoạt động. Không ăn thì mẻ cũng chết (Tục ngữ).
Ăn là 1 trong những nhu cầu thiết yếu nhất của cơ thể sống, của con người. Có
thực mới vực được đạo. Dĩ thực vi tiên. Ăn cốt để sống chứ
không phải sống để ăn.
Trong
kho từ vựng tiếng Việt, ăn là 1 trong những động từ kết hợp được với nhiều từ loại khác thành những ngữ (cụm
từ), câu, thành ngữ, tục ngữ, ca dao… mang chở nhiều ý nghĩa gần, xa, đen,
bóng, phong phú, rất thú vị.
Về cách ăn, qua sự thống
kê vốn từ vựng trong trí nhớ của tôi:
Ăn
trông nồi, ngồi trông hướng; ăn sóng nói gió, ăn bơ làm biếng, ăn như thuyền
chở mã, làm như ả chơi giăng, ăn uống cảnh giả (đài các, cái giá cắn đôi…), ăn
chó cả lông, ăn lòng cả cứt, ăn bẩn như chó, ăn thùng uống vại (chĩnh, chậu…),
miếng ăn miếng nhục, miếng ăn quá khẩu thành tàn, ăn tham như mõ, ăn như hùm đổ
đó, ăn uống lai rai, ăn uống nhậu nhẹt, ăn vèn uống chạc, ăn uống tùm lum (linh
đình, bừa bãi…), ăn như phá mả, ăn gì gắp nấy, ăn đấy ỉa đấy, ăn (mồm) như mỏ
khoét, ăn như thuồng luồng, ăn uống lầy là, nghề ngà; miệng ăn (sông băng), núi
lở, ăn tàn phá hại, ăn vơ uống váo, ăn uống trâu bò, ăn uống linh đình, ăn uống
bê tha, ăn uống lèm nhèm (hổ lốn, lôi thôi, linh tinh, lăng nhăng, vô tội vạ,
ngập miệng, ngập mũi…), ăn cả của con cháu,…ăn mòn bát mòn đũa, ăn đấu làm
khoán, ăn chắc để dành, mặc chắc mặc bền…Nam thực như hổ, nữ thực như miêu
(mèo); ăn nhờ ở đậu, (có) của (bát) ăn của để, ăn uống kiêng cữ (với phụ nữ mới
sinh con, người bệnh), ăn đâu biết đấy, ăn chơi thả giàn, (lu bù, trụy lạc, tới
bến, phè phỡn, sa đọa, có nòi, đua đòi, trác táng, tàn bạo, lối đại gia, không
tính đếm, trên tiền, ngập mặt ngập mũi, thác loạn, cò con…), ăn quẩn cối xay
(gà què); ăn (làm ) bài bản…ăn ngủ điều độ, (có) giờ giấc, ăn nằm (giao hợp)…ăn
sương (ăn trộm, ăn cắp), ăn tiêu tùy tiện, ăn xó mó niêu, ăn xái (dái) cho nó!
ăn nên làm ra, ăn không nên đọi, nói chẳng nên lời, ăn bốc ăn bải, hết nạc vạc
xương (cách ăn thịt); ăn chui uống lủi, ăn bao nhiêu, trả bấy nhiêu. Đi tu,
Phật bắt ăn chay/Thịt chó ăn được, thịt cầy thì không! Ăn cơm mắm cáy, thì
ngáy o o/Ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy! (Ca dao), Ăn cây nào, rào cây
ấy; ăn xương uống máu đồng đội, ăn dơ tanh rình! Hùm dữ, chẳng ăn thịt con;
muốn ăn hét, phải đào giun, muốn ăn khoai, vác mai đi đào, theo voi ăn bã mía,
theo đóm ăn tàn; Muốn ăn cơm trắng mới giò/Thì ra cùng đẩy xe bò với anh; có ăn
nhạt mới thương đến mèo…vừa ăn vừa uống, vừa ăn vừa nói, vừa ăn vừa ỉa, vừa ăn
vừa nghĩ, vừa ăn vừa xem (sách, báo, ti vi…), vừa đi (chạy) vừa ăn; vừa ăn vừa
cười (khóc); ăn uống nhồm nhoàm, bậy bạ, qua loa, thật lực, tự nhiên, tận tình,
thoái mái (đi cho!)…ăn như chết đói không bằng! ăn uống chay tịnh, giữ gìn, bừa
phứa, …ăn ốc nói mò; kẻ ăn ốc, người đổ vỏ,ăn theo nói leo, ăn uống tằn tiện,
ai biết ma ăn cỗ?! ăn uống ma mọi, ăn lông ở lỗ, ăn hại đái nát, ăn uống chán
chê, thừa mứa, ăn quả lừa (đắng), ăn ở như bát nước đầy, cố đấm ăn xôi, ăn
thùng uống chậu, ăn dày ăn mỏng, ăn trên ngồi trốc, ăn tiền ăn bạc, ăn tàn phá
hại, ăn chung ở lộn, ăn chung uống chạ, ăn sung mặc sướng, ăn đói mặc rách, ăn
người người ăn, ăn đời ở kiếp, ăn hiếp, ăn chặn, ăn năm ăn mười, ăn xôi nghe
kèn, ăn cháo đá (đái ) bát, Ở ăn thì nết cũng hay/Nói điều ràng buộc thì tay
cũng già! (Truyện Kiều)…
*
Nhận xét: ăn thường kèm (kết
hợp với uống (rượu, bia), chỉ chung sự ăn; trong cách ăn
có khen, có chê. Nhưng ăn vẫn là trước hết, quan trọng nhất. Tất nhiên, đối với
không ít con nghiện rượu chẳng hạn, thì uống (ẩm) lại quan trọng hơn ăn. Mới có
câu: Ẩm giả lưu kỳ danh (Lý Bạch); chưa nghe nói Thực giả lưu kỳ
tiếng !... bao giờ… Ăn thường kết hợp với mặc, ở, chơi, làm, ngủ,
đụ (giao hợp)…
Đặc
biệt, ăn cái gì, con gì, thường kết hợp với những từ tục tĩu
thành những cụm từ (ngữ, câu, thành ngữ, tục ngữ) mang chức năng chửi rủa,
miệt thị, tỏ sự khinh bỉ, căm giận của người nói (viết) trong những cuộc tranh
cãi, cãi lộn ở nông thôn hoặc mua bán nơi chợ búa, thành thị (sử
dụng ngôn ngữ hàng tôm hàng cá, đầu đường xó chợ, hạ cấp). Kèm
theo quán ngữ chửi rủa: Cha tiên sư, mẹ bố tiên nhân, cha con đẻ, mả tổ, cả
họ, bà truyền đời báo danh cho mày nhớ!.. .Mày (thằng kia, con nọ, nhà
ấy, cả họ nhà mày, cả làng, cả tổng nhà mày…) ăn (mút, bú, liếm): + các từ
ngữ tục tĩu như: l, b, khí, đéo, máu l, b, con c, … tao, bố,
mẹ ông (bà) đây này!...
Những
động từ vốn chỉ dùng trong sinh hoạt phòng the vợ chồng, với sự
trần trụi, khoái cảm riêng tư nhất của nó, nay được cố ý cất cao giọng nói kéo
dài 1 cách công khai, đầy hả hê hay phẫn nộ, văng vào mặt đối phương, làm cho
đối thủ tối tăm mặt mũi, kèm theo cái tốc váy bàn tà lồng nhuộm nâu
(đen, gụ) đánh soạt, tay chống nạnh, tay vỗ đùi, xỉa xói… Chưa dứt lời, phiá
bên kia cũng lập tức phản pháo bằng những lời lẽ chát chúa, đanh đá, đáo để,
tục tằn, dữ dội, xa xả không kém…! Trường khẩu chiến có khi hàng tiếng
đồng hồ vẫn bất phân thắng bại, có khi bị đẩy cao tới ẩu đả thượng cẳng tay,
hạ cẳng chân, thậm chí sử tới gậy gộc, dao, búa, đến thương tích, án
mạng…mới chịu dừng…! Ở đây, rõ ràng nhất khoái đã biến thành nhất
đểu, nhất tục! tội ác!
Tất
cả những tình huống giao tiếp đời thường ấy hầu hết đều có sử dụng từ
ĂN! Đặc điểm ngôn ngữ sinh hoạt xã hội này phổ biến lâu đời, với dân tộc Việt,
từ bắc chí nam, và có lẽ không chỉ với người Việt Nam mình! Đó là 1 trong những tệ
nạn văn hóa - xã hội cần được khắc phục dần dần tới chấm dứt hẳn trong lộ
trình xây dựng 1 xã hội văn hoá, văn minh, hiện đại ở nông thôn cũng như đô thị
Việt Nam.
Nhất
khoái Ăn, trước hết là khoái cái
miệng (Thần khẩu; miệng cũng được tôn vinh là một vị thần!). Kế đó
là khoái tất cả các giác quan, thống khoái râm ran, âm ỷ, bừng bừng, ngây
ngất…toàn thân. Cao nhất là khoái cảm tinh thần, tư tưởng - thẩm mỹ, khoái cảm
về cái đẹp thưởng thức, cái đẹp cuộc sống con người thanh cao, qua sự ăn uống.
Đó là khái niệm ăn ngon. Ăn như thế nào mới được coi là ngon? Có lẽ chí
lý nhất, lãng mạn nhất, cho đến nay ở nước ta, vẫn là quan niệm của Tản Đà về
sự ăn ngon và không ngon. Ngồi ăn với ai? ở địa điểm nào? Vào thời khắc
nào? Dùng thức ăn gì?... Ai là đầu bếp? … Kết hợp tất cả những yếu tố đó thật
sự hài hòa, như ý, mới tạo được 1 bữa ăn ngon đúng cách. Rồi đến quan
niệm về ăn ngon mà giản dị, thanh nhã của những Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ
Bằng, Băng Sơn trong những truyện ngắn, tùy bút nổi tiếng của các ông: Hà
Nội ba mươi sáu phố phường, Thương nhớ mười hai, Món ngon Hà Nội, Món lạ miền
Nam, Phở, Giò lụa, Cốm, Thú ăn chơi của người Hà Nội…
Nhất khoái Ăn, ở đây, rõ ràng là nhất khoái cao quý thuộc về
văn hóa, tinh thần. Muốn hiểu, muốn sở hữu được nó, người ta cần phải
học: Học ăn, học nói, học gói, học mở. Phải rèn luyện và trải
nghiệm cả đời mới có thể trở thành một con người thanh lịch trong sự ăn uống,
trong sự thưởng lãm và bình phẩm nhất khoái, khi ăn uống với bạn
bè, khách khứa khiến mọi người phải khẩu phục, tâm phục.
2. HOÀNG
DÂN tán
Nhất khoái Ăn, nghĩa là tập trung nói về cái sự khoái và
cả những điều kiện để đạt tới cực khoái ăn. Tôi muốn phác thảo theo hướng này: Đối với người Việt, ăn là việc quan trọng hàng
đầu: Dĩ thực vi tiên/Có thực mới vực được đạo… Theo quan niệm của triết lí phương Đông thì nhân
thân tiểu thiên địa (con người là vũ trụ nhỏ) tồn tại hài hòa cùng với thiên
địa (đại vũ trụ), do đó ăn còn là đạo trời: Trời đánh còn tránh
bữa ăn! Ăn đã trở thành một phản xạ thường trực trong ý thức cộng
đồng, nó trở thành yếu tố đầu tiên dùng để biểu đạt ý nghĩa của các hiện tượng
trong đời sống: ăn cơm, ăn bánh, ăn giỗ, ăn cưới, ăn tiệc… ăn lương, ăn
sương, ăn hối lộ, ăn bẩn, ăn chặn, ăn gian, ăn cướp… ăn ý, ăn ảnh, ăn phấn…
Theo ý nghĩa trên thì hành vi ăn cũng
được phân cực thành tốt/xấu, cao thượng/thấp hèn…, tức là ở mức độ nào
đó, hành vi ăn còn là ẩn dụ cho nhân cách con người: ăn trông
nồi, ngồi trông hướng/ăn như hủi ăn thịt mỡ/ăn đúng nơi, chơi đúng chỗ…, Do
đó xin tạm gác lại vấn đề ăn có văn hóa và ăn như súc vật.
… Ăn không
chỉ đơn thuần là việc dùng ngũ cốc, thực phẩm… để lấp đầy dạ dày một cách cơ
học, mà ăn còn là một cái thú được đồng thời thỏa mãn cả về vật chất và
tinh thần.
I. Về vật chất:
1. Nguyên liệu:
- 1 là lúa gạo
(phù hợp với cơ địa của cư dân nông nghiệp): Người sống về gạo, cá bạo về
nước/Mạnh vì gạo, bạo vì tiền… Trong lúa gạo thì gạo tẻ đứng đầu bảng: Cơm
tẻ mẹ ruột/Đói thì thèm thịt thèm xôi, hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường…
- 2 là rau củ quả
(phù hợp với khí hậu nhiệt đới): Đói ăn rau, đau uống thuốc/Ăn cơm không rau
như nhà giàu chết không kèn trống/Ăn cơm không rau như đánh nhau không có người
gỡ…
- 3 là thủy sản (phù
hợp với đặc điểm địa lí nhiều sông nước): Có cá vạ cơm/Con cá đánh ngã bát
cơm…
- 4 là thịt (đảm
bảo đủ chất, nhưng không có nhu cầu cao như xứ hàn đới): chủ yếu là thịt gia
cầm, gia súc; trong đó có những món khoái khẩu dân dã: Sống ở đời ăn miếng
dồi chó, chết xuống âm ti biết có hay không/Sống được miếng dồi chó, chết được
bó vàng tâm…
2. Chế biến
Các
nguyên liệu phải được chế biến thành những món ăn tổng hợp thì cái sự ăn
mới hứng thú, ngon miệng. Một món ăn khoái khẩu phải thỏa mãn các
điều kiện sau:
- Đủ ngũ chất:
bột, nước, khoáng, đạm, béo
- Đủ ngũ vị: chua,
cay, mặn, ngọt, đắng
- Đủ ngũ sắc:
trắng, xanh, vàng, đỏ, đen
Ví dụ: Một
bát phở: độ mềm của thịt bò tái hồng,
độ dẻo của bánh phở trắng, vị chua của lát chanh hoặc thìa dấm, chất cay dịu
của mấy lát gừng vàng, chất cay nóng của
mấy lát ớt đỏ hoặc hạt tiêu đen, chất thơm cay của hành hoa xanh nhạt, chất
thơm hăng hắc của rau thơm, nước dùng ngọt lừ…
Hoặc
món nem rán, món nộm…Điển hình là bát
nước chấm: vị mặn của nước mắm, vị chua của chanh hoặc dấm, vị cay nóng của ớt
hoặc hạt tiêu, vị cay dịu của gừng, vị ngọt của đường, mùi thơm của tỏi…
Sẽ là may mắn cho những đức ông chồng có một bà
vợ nội trợ giỏi và ngược lại, sẽ là thiệt thòi lớn cho những ông chồng vớ phải
một bà vợ chỉ biết chém to kho mặn, chán nhất là bà vợ không bao giờ pha
chế nổi một bát nước chấm cho ra hồn!
Một
bữa ăn đạt tới độ khoái phải đồng thời thỏa mãn các giác quan: mũi
ngửi mùi thơm tỏa ra từ món ăn, mắt nhìn các màu sắc hài hòa, lưỡi tận hưởng vị
ngon, tai nghe âm thanh ròn của nhai, xúc giác (dùng tay xé thịt gà hoặc nắm
xôi: Thịt gà, xôi xéo, đàn bà/Cả ba món ấy đều là dùng tay)…Với cánh mày
râu thì phải có thêm chén rượu đưa cay thì bữa ăn mới thực sự hoàn hảo.
II. Về tinh thần và không gian, thời tiết…
1.Không khí bữa ăn phải vui vẻ: Một bữa cơm gia đình mà chẳng ai thèm nói với ai một
lời nào thì đúng là thảm họa. Bạn bè ngồi cùng mâm mà có người không ưa
nhau thì cao lương mĩ vị cũng thành… rơm rạ. Tay
chén, tay đũa, vừa ăn vừa nổ râm ran chuyện giàn cùng mây, chém gió muôn màu, say tràn Quý Tỵ… mới thật đã khoái ăn!
2.Chỗ ngồi ăn phải thoáng đãng, yên tĩnh: Ngồi ăn trong một căn phòng chật chội ngột ngạt hoặc
bên một cái máy khoan cắt bê tông thì ăn là một… hình phạt. Chỗ ngồi ăn phải
rộng rãi, thông thoáng, tràn ngập ánh sáng thì mới có tâm thế để thưởng thức khoái
ăn.
3.Thời tiết: Quá
nóng nực hoặc quá giá buốt đều bị ức chế. Phải có thời tiết thích hợp thì bữa
ăn mới thú vị… - Mát giời, lành lạnh mưa riêu đông thế này, hay bọn ta phóng
xuống quán Long Sanh dưới chân cầu Thăng Long, mở 1 tiệc RTC (rượu thịt chó)
giải đen năm cũ, đón năm mới nhể?! – Thôi, đi đâu cho mệt! ông fon thằng Tiến,
bảo bưng ngay sang đây 1 mâm tiết canh - lòng lợn + 5 bát cháo lòng nóng sốt là
ngũ phụng ta có thể ngất luôn và tề phi lên tận cung Đâu Xuất! OK!...
Tóm
lại, nếu chỉ ăn cho xong bữa thì khỏi bàn về khoái ăn. Muốn đạt
tới cực khoái ăn thì nên coi ăn là một nghệ thuật (nghệ thuật ẩm
thực), mà nghệ thuật thì đòi hỏi trước hết phải có tri thức ẩm thực, sau
đó là công phu chuẩn bị. Nếu quan niệm ăn là một cuộc chơi, cuộc
đi tìm cảm hứng thì chớ quên nghề chơi cũng lắm công phu!
( còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét