Nhà văn Vũ Công Hoan
CÁCH MẠNG
TẢN VĂN
DƯ HOA
VŨ CÔNG HOAN dịch
Một vài trí thức phương Tây bảo thủ nhận
xét chỉ trong xã hội có thể chế chính trị đầy đủ dân chủ, mới có thể phát triển
kinh tế với tốc độ cao. Thế là họ vô cùng ngạc nhiên, trong một nhà nước thể chế
chính trị thiếu trong suốt tại sao tốc độ phát triển kinh tế lại kinh khủng như
vậy? Theo tôi, có thể họ đã bỏ qua một điểm quan trọng: Đằng sau kì tích kinh tế
đó có một đôi tay cứng rắn đang thúc đẩy. Tên của đôi tay ấy là cách mạng.
Năm 1949, sau khi Đảng cộng sản xây dựng
chính quyền ở Trung Quốc vẫn theo đuổi niềm tin tiến hành cách mạng đến cùng.
Đương nhiên cách mạng không còn là đấu tranh vũ trang, cách mạng bắt đầu được
diễn ra với hết cuộc vận động chính trị này đến cuộc vận động chính trị khác và
lần lượt lên đến đỉnh cao ở thời kỳ đại nhảy vọt và thời kỳ đại cách mạng văn
hóa. Sau đó, trong kỳ tích kinh tế xảy ra sau ba mươi năm cải cách mở cửa ở Trung
quốc, cách mạng đã thoát thai đổi cốt xuất
hiện dưới một hình thức khác, hay nói một cách khác, trong kỳ tích kinh tế của
chúng ta, vừa có cuộc vận động cách mạng kiểu đại nhảy vọt, vừa có bạo lực cách
mạng kiểu đại cách mạng văn hóa.
Trước hết tôi xin nói về phong trào
cách mạng kiểu đại nhảy vọt trong phát triển kinh tế Trung Quốc.Ở đây tôi xin
nêu ra một nhóm số liệu về sản lượng gang thép Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ
cao. Năm 1978, cũng là năm đầu tiên cải cách mở cửa, sản lượng năm gang thép của
Trung Quốc vừa vượt qua ba mươi vạn tấn, hai năm sau, tức là năm 1980, sản lượng
gang thép đạt ba mươi bảy vạn một ngàn hai trăm tấn, đứng thứ năm thế giới.Năm1996
sản lượng nhẩy vọt lên đứng hàng đầu thế
giới, sau đó đã liên tục mười bốn năm giữ hàng đầu thế giới. Năm 2008 sản lượng
gang thép vượt quá năm trăm triệu tấn, chiếm 32% tổng sản lượng thế giới, còn
cao hơn tổng lượng của nước đứng thứ hai và thứ tám cộng lại.
Nhóm số liệu này về chính diện nó đã
phản ánh kinh tế Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ cao.Nhưng mặt sau của nó lại
ẩn chứa câu truyện rất khó tưởng tượng. Tuy nhiên đến năm 2008 sản lượng gang
thép của Trung Quốc đã đạt sáu trăm sáu mươi triệu tấn, tiêu phí bốn trăm sáu
mươi triệu tấn, sản năng quá thừa hai trăm triệu tấn. Số liệu này vẫn không thể
che dấu một sự thực của ngành gang thép Trung Quốc ba mươi năm trước kia, tức
là tốc độ tăng trưởng sản lượng gang thép Trung Quốc đã vượt hẳn tốc độ mở rộng
quy mô sản xuất. Vậy là câu truyện ngông cuồng cả nước làm gang thép thời kỳ đại
nhảy vọt lại một lần nữa diễn ra trên đất nước rộng lớn Trung Quốc.
Năm 1958, thời kỳ đại nhảy vọt, toàn
dân làm gang thép, trong khẩu hiệu vượt nước Anh, đuổi kịp nước Mỹ, những lò
cao nhỏ đắp đất rải khắp đồng ruộng bao la ở nông thôn và trong sân nhà của thị
trấn thành phố Trung Quốc. Đất nước rộng lớn Trung Quốc bốc cháy bừng bừng, bầu
trời Trung Quốc khói đen ngùn ngụt bốc lên. Bà con nông dân bỏ việc đồng áng,
mò tìm mỏ quặng khắp nơi để luyện gang thép, hàng loạt hoa màu chín tới mục nát
ngoài đồng ruộng không ai gặt hái. Công nhân viên chức ở thành phố thị trấn
cũng bỏ công tác, nghề nghiệp của mình.Công nhân xưởng dược đi luyện thép, công
nhân nhà máy tơ đi luyện thép, nhân viên bán hàng trong cửa hàng đi luyện thép,
thầy giáo học sinh trong nhà trường đi luyện thép, bác si y tá trong bệnh viện
đi luyện thép...Trong một thời đại như vậy người nào cũng sợ bị nhận xét là “phần
tử tiêu cực của đại nhảy vọt”. Ai ai cũng lấy luyện thép làm vinh quang. Tìm
không ra quặng, luyện không ra gang thép, người thôn quê liền đập nồi chảo
trong nhà mình, người thành phố liền tháo gỡ ống lò sưởi và cửa sổ sắt trong
nhà trong đơn vị vứt vào lò cao thủ công, đã luyện ra hơn ba triệu tấn sắt thép
phế bỏ đi. Trong năm ấy tổng sản lượng gang thép của Trung Quốc là mười triệu bảy
mươi vạn tấn, gấp đôi so với năm triệu ba trăm năm mươi ngàn tấn của năm 1957 .
Nhưng gang thép phế bỏ đi lại chiếm một phần ba tổng số lượng đó. Mặc dù vậy,
người ta vẫn toàn dân luyện gang thép một cách cuồng nhiệt như lửa ngút trời.
Trước lửa lò hừng hực, mồ hôi thấm ướt lưng, người ta vẫn hát câu vè thịnh hành
nhất thời kỳ toàn dân làm gang thép “so thử xem”:
“Bạn anh hùng ta hảo hán, bên lò cao hãy
đọ thử xem, bạn luyện ra một tấn, ta luyện ra tấn rưỡi,bạn ngồi phản lực, ta
đáp tên lửa, tên của bạn chọc thủng trời xanh, ta có thể bay quanh trái đất”.
Đến những năm 1990, khi làn sóng phát
triển kinh tế lan ra cả nước, tình cảnh tương tự vẫn hiện lại một cách cục bộ. Trên
cánh đồng chung quanh xí nghiệp gang thép cỡ lớn, đã mọc lên rất nhiều lò cao
thủ công, bà con nông dân dũ thân thay đổi, tơí tấp trở thành công nhân luyện
thép mồ hôi nhễ nhại, trong lò cao đắp đất của mình sau khi họ cho quặng sắt
nóng chảy, lập tức đổ vào xe kiểu bồn chịu nhiệt độ cao chế tạo đặc biệt, lái
xe nhấn ga xe kiểu bồn chứa đầy nước gang phóng như bay đi đến nhà máy gang
thép, đổ nước gang vào lò cao chính qui của nhà máy gang thép, rồi lại từ lò
cao chính qui tiến hành các quá trình phân ly thẩm thấu các bon và xỉ sắt của
nước gang, sau đó bắt đầu ra gang. Trường hợp thông thường, lò cao cỡ lớn mỗi ngày
hai mươi bốn tiếng đồng hồ, ra gang khoảng mười bốn lần, do lò cao bằng đất của
bà con nông dân đã nung chảy quặng sắt ra trước, lò cao cỡ lớn của nhà máy gang
thép mỗi ngày ra gang có thể lên đến ba mươi lần.Đương nhiên lần này bà con
nông dân luyện ra loại gang thép trong lò xây đất không phải thép bỏ đi, bà con
nông dân cũng không phải vì chính trị trống rỗng mà luyện gang thép lớn. Họ bắt
đầu luyện gang thép lớn vì đồng tiền thực tế. Toàn dân luyện gang thép khiến
người ta tặc lưỡi như vậy, còn có sự mở rộng nhanh chóng qui mô của xí nghiệp
gang thép. Sản lượng gang thép của Trung Quốc tự nhiên tăng trưởng với tốc độ
cao. Bởi những xe kiểu bồn đặc chế vận chuyển nước gang thường xuyên qua lại
như mắc cửi giữa các lò cao thủ công trên cánh đồng và lò cao chính qui trong
nhà máy, nhiệt độ cao tán phát ra khiến đường cái biến thành con đường bị hơ
nóng, những cây cối cành lá xanh tươi hai ven đường đã lần lượt bị héo vàng chết
lụi.
Đại nhảy vọt năm 1958, có thể nói là một
vở kịch vui hoàng đường của chủ nghĩa lãng mạn.Giả dối, ba hoa, bốc đồng đã trở
thành thói hư tật xấu. Sản lượng mỗi mẫu lúa thời ấy tức là ruộng sản lượng cao
cũng chỉ khoảng hai trăm kg, nhưng dưới khẩu hiệu “Người dám làm đến đâu, ruộng
cao sản đến đấy”. Sản lương mỗi mẫu lúa nước của các địa phương trong cả nước lần
lược được tâng bốc lên đến trên năm ngàn kg. Ngày 18 tháng 9 năm 1958 Nhân Dân
nhật báo đưa tin số đặc biệt: “Sản lượng mẫu lúa nước của huyện Hoàn Giang Quảng
Tây đạt 6500 kg”. Hơn nữa, giả dối, ba hoa, bốc đồng còn làm từ những chi tiết,
ví dụ lợn béo nuôi ra thời đó lên đến hơn năm tạ, cái đầu lợn to bằng cái gùi,
giết một con lợn tương đương với ba con lợn trước kia, cái chảo gang ba thước
luộc không lọt, cái chảo to sáu thước chỉ luộc được nửa con lợn. Quả bí ngô trồng
ngoài ruộng cũng to kinh khủng, bọn trẻ con có thể chơi trong quả bí ngô lớn từ
nhà này sang nhà khác. Thời ấy có bài ca dao “một củ khoai lang lăn xuống dốc” được
lan truyền rộng rãi trong cả nước:
“Phía đông công xã có con sông,
Bên bờ một dốc núi chênh vênh.
Trên dốc xã viên bới khoai lang
Ồn ào trò truyện cười râm ran.
Chợt nghe lòng sông nước tung tóe
Cột sóng bắn lên cao hơn trượng.
Giật mình tôi cất tiếng hỏi to
Ai đã sơ xuất ngã xuống đó?
Bà con nghe vậy cười khà khà
Một cô đã lên tiếng đáp lại
Làm gì có ai té ngã
Lăn xuống một củ khoai lang”.
Bắt đầu từ tháng 8 năm 1958, Trung Quốc
phế bỏ thể chế hành chính cấp xã, nhao nhao đổi thành công xã nhân dân, lại
nhao nhao lập nhà ăn lớn công xã. Bà con nông dân không ăn cơm ở nhà mình, mà
ra nhà ăn lớn công xã ăn uống linh đình, khẩu hiệu “ cứ ăn cho căng rốn, dốc
lòng hăng hái ra sản xuất” đã trở thành
phong trào lan khắp sông dài núi cao từ nam đến bắc thời đó.Khi nhà ăn công xã
dùng lương thực đã không hề có kế hoạch, lại vung vãi lãng phí, một vài tỉnh
còn bày đặt ra trò thi ăn, một số nông dân tham gia thi ăn, để đoạt được danh
hiệu quán quân ăn, đã làm cho dạ dầy của
mình phình tướng lên phải vào nằm bệnh viện.
Mấy tháng sau, kho lương thực của các
địa phương Trung Quốc đã trống rỗng. Sau đó vở kịch vui hoang đường của chủ
nghĩa lãng mạn này đã bất lực hạ màn, tấn bi kịch tàn khốc của chủ nghĩa hiện
thực lập tức mở màn.
Cả đất nước đã lâm vào nạn đói kém tàn
khốc lạnh lùng bao trùm lên Trung Quốc. Bởi vì trước đó nơi nào cũng hoang báo
sản lượng lúa thu hoạch, lượng trưng thu của nhà nước cao hơn hẳn sản lượng thực
tế. Hoang báo được mùa là hành vi báo công lên trên của quan chức địa phương.
Song nông dân lại là kẻ trả giá đau xót.Khẩu phần ăn, lượng hạt giống và thức
ăn chăn nuôi của họ cũng bị nhà nước trưng thu. Ở một số địa phương lấy danh
nghĩa cách mạng, đã bắt đầu cuộc vận động “chống man trá sản lượng chia riêng
tư” một cách dã man và tàn khốc. Cán bộ công xã và đại đội sản xuất phụng mệnh
thành lập “đội đột kích rà soát lương thực”khám xét từng gia đình. Trong gia
đình nông dân, họ dốc hòm lật tủ,đào nền đục tường, tìm không ra lương thực, liền
vung tay đánh đập nông dân. Công xã Tiểu Khê Hà của huyện Phong Dương tỉnh An
Huy trong cuộc vận động “chống man trá sản lượng chia riêng tư”đã có hơn ba
ngàn người bị đánh, hơn một trăm người bị tàn phế, còn có hơn ba mươi người bị
chết trong đội cải tạo lao động do công xã tự lập.Trong khi đó nạn đói lan tràn
như cuồng phong, chết đói xuất hiện trên đất nước rộng lớn Trung Quốc như con
bài xương đô mi nô đổ xuống. Theo số liệu công bố của nhà nước sau này: Trong
thời gian đại nhảy vọt chỉ riêng tỉnh Tứ Xuyên đã có 8.110.000 người chết đói,
cứ chín người có một người chết đói.
Sau rất nhiều năm trôi qua, trong khi
mọi người luôn luôn suy nghĩ lại tai nạn do cuộc đại nhảy vọt năm 1958 đã đem lại
cho Trung Quốc, thì sự phát triển kiểu đại nhảy vọt lại vẫn xuất đầu lộ diện ở
khắp nơi trong đời sống kinh tế của chúng ta. Xây dựng sân bay kiểu đại nhảy vọt,
xây dựng bến cảng kiểu đại nhảy vọt, xây dựng đường cao tốc kiểu đại nhảy vọt...
Những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng qui mô lớn này về lý luận phải được chính
quyền trung ương phê chuẩn trước.Nhưng trên thực tế rất nhiều chính quyền địa
phương đều lên dự án trước rồi mới xin chính quyền trung ương phê duyệt. Vậy là
các dự án xây dựng trùng lặp, không sát thực tế và phô trương lãng phí đâu đâu
cũng có, hơn nữa còn rầm rầm rộ rộ như phong trào cách mạng. Ví dụ như xây dựng
bến cảng, trên tuyến bờ biển dài 640 km của Hà Bắc và Thiên Tân phân bố bốn bến
cảng lớn Tần Hoàng Đảo, Kinh Đường, Thiên Tân và Hoàng Hoa. Năm 2003, tuy bốn bến
cảng này đều ở trong tình trạng “ăn không no”, nhưng bốn bến cảng ấy vẫn không
ngừng tăng khả năng đầu tư xây dựng.
Điều có ý tứ là, những xây dựng kiểu đại
nhảy vọt đi trước này, dưới sự tăng trưởng với tốc độ cao của kinh tế Trung Quốc,
đã rất nhanh chóng từ “đói ăn” trở thành “ăn nó quá”. Nhưng những xây dựng kiểu
đại nhảy vọt khác vẫn trong tình trạng đói kém, một số đường cao tốc dài hạn
trên mười năm cho đến nay vẫn chỉ là chạy được những xe con và xe ca du lịch với
số lượng không nhiều, hầu như không nhìn thấy những chiếc Công- te – nơ.
Năm 1999 Bộ giáo dục quyết định mở rộng qui mô
chiêu sinh giáo dục cao đẳng đại học trên qui mô lớn, cuộc đại nhảy vọt của nền
giáo dục Trung Quốc bắt đầu. Đến năm 2006 các trường cao đẳng phổ thông Trung
Quốc chiêu sinh là 5.400.000 người, gấp
năm lần năm 1998 là 1.080.000; số người học trường cao đẳng là 25.000.000 người.
Vì vậy Bộ giáo dục đã kiêu hãnh lên tiếng:
-“Qui mô giáo dục cao đẳng của Trung
Quốc lần lượt vượt Nga, Ấn Độ và Mỹ, trở thành số 1 thế giới. Trải qua nỗ lực
gian khổ trong mấy năm ngắn ngủi, dưới điều kiện giá trị tổng sản lượng trong
nước bình quân đầu người trên 1000 đô la, sự phát triển giáo dục cao đẳng của
Trung Quốc đã thực hiện từ giáo dục tinh anh đến đại chúng hóa, đi hết con đường
mà các nước khác cần phải ba mươi nhăm năm thậm chí dài hơn”.
Trung Quốc ngày nay, đằng sau những số
liệu vinh quang thường ẩn chứa những cuộc khủng hoảng. Khoản vay để mở rộng
chiêu sinh đại học Trung Quốc đã vượt quá hai trăm triệu nhân dân tệ. Khoản vay
khổng lồ này rất có thể lại là một vòng nợ xấu của ngân hàng thương nghiệp
Trung Quốc, bởi vì đại học Trung Quốc trên thực tế không thể trả nổi khoản nợ mở
rộng chiêu sinh. Ngoài ra, học phí đại học trong hơn 10 năm trong đại học đẳng
cấp khác nhau đã tăng vọt lên từ 25 lần đến 50 lần, tăng hơn 10 lần so với tăng
trưởng của thu nhập dân cư. Có người tính
toán, hiện nay nuôi dưỡng một sinh viên cần 4,2 năm thu nhập thuần của
dân cư thành phố thị trấn, cần13,6 năm thu nhập thuần của một nông dân, còn nữa,
mở rộng chiêu sinh kiểu đại nhảy vọt trực tiếp tạo nên khó khăn tìm kiếm công
ăn việc làm cho sinh viên hiện nay. Hiện tại mỗi năm hơn một triệu sinh viên tốt
nghiệp mới ra trường không tìm được việc
làm. Đây đã trở thành một vấn đề xã hội hết sức nặng nề ở Trung Quốc hiện nay.
Rất đông các ông bố bà mẹ nghèo khổ, để nuôi con học hết đại học đã không tiếc
nợ nần chồng chất, bị khuynh gia bại sản, nhưng sau khi con tốt nghiệp đại học,
lập tức trở thành một thành viên của đại quân thất nghiệp Trung Quốc. Các ông bố
bà mẹ bần cùng đành phải khóc dở mếu dở lún sâu trong nghèo khổ. Trước hiện thực
tàn khốc, một số con nhà nghèo đã vứt bỏ mộng tưởng cuộc đời của họ, sau khi tốt
nghiệp phổ thông trung học đã khoác ba lô ra tỉnh ngoài làm thuê, bởi vì cho dù
họ có thi đậu đại học, sau khi ra trường họ vẫn phải đứng trước nạn thất nghiệp
và phải đối mặt với món nợ khổng lồ. Năm 2009 số người ghi tên thi cao đẳng đại
học ở Trung Quốc lần đầu tiên xuống thấp sau ba mươi hai năm tăng trưởng liên tục.
Tiếp theo tôi lại xin nói bạo lực cách
mạng kiểu đại cách mạng văn hóa không ngừng diễn ra trong kỳ tích kinh tế ba
mươi năm của chúng tôi như thế nào.
Trước hết tôi xin kể một câu truyện về
con dấu. Trong lịch sử và hiện thực sáu mươi năm của Trung Quốc cộng sản, quyền
lực chính trị và kinh tế lớn lao thường
co lại trong một con dấu nho nhỏ. Trên văn bản bổ nhiệm quan chức cần phải đóng
dấu, trong bản hợp đồng giữa các công ty cần phải đóng dấu… Đồng thời, con dấu cũng là chứng minh đời người có hợp pháp hay không,
giấy chứng nhận công tác, thẻ học sinh, giấy khai sinh, giấy báo tử, giấy kết
hôn…cũng cần phải đóng dấu. Con dấu ở Trung Quốc có thể nói không ở đâu là
không có, không lúc nào là không dùng.
Tháng
1 năm 1967 phái tạo phản ở Thượng Hải đã tấn công chính quyền thành phố bằng
phương thức bạo lực cách mạng, cướp đi con dấu của chính quyền, sau đó tuyên bố
cướp quyền thành công.Đây là “cách mạng tháng giêng” nổi tiếng trong thời gian cách mạng văn hóa. Phong trào
cướp quyền của “cách mạng tháng giêng” sau đó loang ra cả nước. Phái tạo phản
và các hồng vệ binh các địa phương tới tấp tấn công cơ quan chính quyền các địa
phương, trường học,
nhà máy,
còn cả công xã nhân dân ở nông thôn. Chỉ cần là các ngành có quyền lực có con dấu,
mặc dù to nhỏ, đều lâm vào trong phong trào cướp quyền của “cách mạng tháng giêng”. Phong trào
cướp quyền có
thanh
thế rộng lớn thời
kỳ đầu cách mạng văn hóa,
kỳ thực là phong
trào cướp đoạt con dấu. Phái tạo phản và hồng vệ
binh, y như bọn
thổ phỉ trộm cướp đập
các cửa ra vào và cửa sổ cơ quan chính
quyền, nhà máy, trường học, hò hét ầm ĩ xông
vào,
rồi đập bàn đập tủ trong văn phòng, dốc
két dốc tủ,
tìm con dấu tượng trưng cho quyền lực.
Thời
ấy, nếu ai cướp được con dấu, người ấy sẽ có quyền lực thật sự, có thể đàng
hoàng ra mệnh lệnh, có thể danh chính ngôn thuận đến ngành tài vụ lĩnh kinh phí
cách mạng, có thể đẩy kẻ mình ghét vào chỗ chết, có thể dùng tiền nhà nước làm kinh phí cách mạng
của phái tạo phản, mọi việc làm bố láo bố lếu, chi cần đóng con dấu cướp được
lên tờ giấy là lập tức được hợp pháp hóa.
Vậy
là giữa các tổ chức của phái tạo phản khác nhau, giữa các tổ chức hồng vệ binh
khác nhau, để cướp được con dấu, đã bắt đầu đánh lộn mày sống tao chết. Có khi mấy tổ chức cùng một
lúc tấn công cơ quan chính quyền. Để chiếm được con dấu trước, không có chỗ nào
là không vượt tường leo cửa sổ, đấu đá lẫn nhau. Cảnh tượng này rất giống thi đấu bóng chày bóng gậy,
trông thấy người của phái này sắp xông vào tòa văn phòng của cơ quan, người của
phái khác sẽ liều mình hăng hái xốc tới giật áo kéo chân,ngăn cản không cho vào tòa nhà văn phòng để cho người
của phái mình xông vào trước. Có tổ chức phái tạo phản vừa cướp thành công con dấu của chính quyền, chưa kịp
ra khỏi cửa liền phát
hiện tổ chức phái khác đã bao vây chặt mình….
Tôi
đã từng chứng kiến tận mắt cảnh tượng như sau, năm ấy tôi lên bảy, run như cầy sấy, đứng dưới cây liễu, xem cuộc cướp
quyền cách mạng diễn ra trong nhà văn phòng chính quyền bên kia bờ sông. Đầu
tiên có khoảng hơn mười tên
tạo phản xông vào cơ quan chính quyền của thị trấn nhỏ chúng tôi, đó là một nhà
gác ba tầng, sau khi họ cướp được con dấu, vừa hò reo hoan hô, thì một đội phái tạo phản khác kịp đến. Đội
ngũ đến sau này có hơn 40 người, đứa nào cũng cầm gậy trong tay, bao vây chặt
ngôi nhà. Tên tư lệnh của đội tạo phản này tay cầm loa tăng âm gọi phái tạo phản trong nhà gác, ra lệnh
cho bọn kia ngoan ngoãn trao lại con dấu, nếu chúng cự tuyệt không trao con dấu,
tên tư lệnh này nói đe dọa:
-
Thì
ta sẽ cho bọn bay biết thế nào là vào đứng ra nằm.
Phái tạo phản trong nhà cũng dùng loa
tăng âm trả lờ hắn: “Bọn bay đừng hòng”.
Sau đó, tôi đứng bên kia sông nghe thấy
phái tạo phản trong nhà gác hô to khẩu hiệu: “Mao chủ tịch muôn năm!”
Phái tạo phản bên ngoài cũng hô to khẩu hiệu “Mao Chủ tịch
muôn năm”
Chúng
vung gậy xông vào. Trong tiếng hô khẩu hiệu “Mao chủ tịch muôn năm”, “Thà chết
bảo vệ lãnh tụ Mao chủ tịch”, hai tổ chức tạo phản đánh nhau chí chóe lọan xạ trong nhà
gác. Tôi đứng bên kia bờ sông nhỏ đều có thể loáng thoáng nghe thấy tiếng kính
vỡ, tiếng gậy đập nứt gẫy bàn ghế, lẫn cả tiếng kêu đau đớn. Đội tạo phản đến trước
người ít không chọi
nổi đông, hơn mười tên vừa đánh vừa rút, cuối cùng rút hết lên sàn xi măng trên mái nhà.
Tôi nhìn thấy hai tên bị thương rất nặng được chiến hữu của họ kéo lên. Hai tên
này nằm
trên sàn phẳng,
dường như đang thoi thóp. Phái tạo phản đến sau cũng xông lên mái bằng nóc nhà,
chúng vung gậy đánh đối thủ một cách rất dã man. Tôi trông thấy ba người bị
chúng đánh đến mức từ mái bằng nóc nhà ngã xuống, trong đó có một tên tay cầm
con dấu, trước khi ngã xuống đất hắn đã dốc sức ném con dấu
xuống sông nhỏ trước mặt tôi.
Phái
tạo phản hơn mười
tên đến trước cướp được con dấu, kết cục đều là “vào đứng ra nằm”.Ba tên từ mái bằng nóc nhà rơi
xuống thì một chết hai bị thương nặng.
Con
dấu khắc
bằng gỗ sau khi được
ném xuống sông nhỏ, không bị chìm ngay, mà trôi theo dòng nước về phía tây. Đôị phái tạo phản đến sau, tuy thắng lợi trong cuộc ẩu đả, nhưng con dấu mà vì nó chúng chiến đấu bị
ném xuống sông nhỏ.
Bọn chúng vội
vàng hối hả chạy
ra khỏi nhà gác, men
theo dòng sông,
vừa kêu vừa đuổi theo con dấu trôi về hướng tây. Trong đó một thành viên phái tạo
phản vừa chay vừa cởi bỏ áo bông, chạy
lên cây cầu gỗ, hắn dẫm bỏ giầy bông trên chân, tung người nhảy xuống giữa lòng
sông mùa đông giá lạnh. Trong tiếng hoan hô cổ vũ của phái tạo phản trên bờ,
tên này dốc sức bơi đến con dấu đang trôi, sau đó chộp được con dấu sắp chìm.
Tiếp
theo đội
ngũ tạo phản này tiến hành đại diễu hành thắng lợi trên đường phố thị trần nhỏ chúng tôi. Tên
tạo phản ướt như chuột lột hắt xì hơi, tay phải dơ cao con dấu đi hàng đầu, các
chiến hữu phái tạo phản của hắn bám sát theo sau, tên thì mặt chảy máu, tên thì
què chân đi cà nhắc,tỏ ra cuộc vũ đấu vừa giờ là cuộc chiến quyết liệt biết chừng nào. Họ vừa hô to “Mao chủ tịch muôn năm”,
vừa tuyên bố cuộc “cách mạng tháng giêng” trên thị trấn chúng tôi đã hoàn toàn
thắng lớn.
Tên
tạo phản liều mình cứu con dấu đã trở thành anh hùng nhà nhà đều biết trên thị
trấn nhỏ chúng tôi. Cũng bởi việc này mà hắn bị cảm lạnh. Sau đó một thời gian, tôi đã trông thấy hắn
trên đường phố mấy lần.
Lần nào cũng thấy khi đang đi hắn đột nhiên đứng sững
không hề động đậy, sau khi hắt xì hơi một cái rõ to, đã
trở lại đi đứng
bình thường.
Sau cách mạng văn hóa, Trung Quốc bắt
đầu thay đổi long trời lở đất. Trung Quốc hiện nay và Trung Quốc thời cách mạng
văn hóa, hình thái xã hội đã tuyệt nhiên khác nhau, nhưng địa vị của con dấu vẫn
như cũ, vẫn là tượng trưng cho quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế. Vì vậy
sự kiện cướp đoạt con dấu vẫn đâu đâu cũng có ở Trung Quốc ngày nay.
Một số công ty dân doanh vì mâu thuẫn
giữa các cổ đông đã diễn hết trò này đến
trò khác cướp đoạt con dấu công ty. Những cổ đông com lê giầy cộp này thường
ngày trông vào rất thể diện, đến khi cướp đoạt con dấu, hay nói cách khác khi
tranh cướp quyền điều hành công ty, kẻ nào cũng giống như những tay đến từ xã hội
đen, tay đấm chân đá, ngoác mồm ra chửi, bọt bay phì phì, phá ghế đập chén, lộ
rõ thói xấu trước mặt công nhân viên chức công ty.Hơn nữa sự kiện cướp đoạt con
dấu như thế này lại cũng ngang nhiên xảy ra tại các sở sự vụ luật sư của Trung
Quốc. Những luật sư tự xưng mình tinh thông luật pháp, khi tranh nhau con dấu ở
sở sự vụ, mức độ quyết liệt không ai nhường ai, gần giống như bọn thổ phỉ thời
xưa tranh nhau đàn bà.
Ngay trong công ty quốc doanh, sự kiện
tranh giành con dấu cũng có lúc xảy ra. Xí nghiệp quốc hữu của Trung Quốc tuy xây
dựng bộ máy quyền lực Hội đồng quản trị, nhưng thể chế đảng ủy truyền thống vẫn
có quyền lực rất lớn. Năm 2007 bí thư đảng ủy một công ty quốc doanh của thành
phố X vì mâu thuẫn ngày càng sâu sắc với chủ tịch Hội đồng quản trị, đã ngang
nhiên lấy danh nghĩa đảng ủy công ty xóa bỏ chức vụ chủ tịch hội đồng quản trị.
Theo luật công ty của Trung Quốc chỉ có hội đồng quản trị mới có quyền xóa bỏ
chức vụ của chủ tịch Hội đồng quản trị. Sau đó vị bí thư đảng ủy công ty triệu
tập hơn ba mươi đại hán thân hình cao lớn vạm vỡ, dùng vồ nặng kí đập cửa văn
phòng hội đồng quản trị, rồi cạy tủ văn phòng, lấy con dấu công ty.
Mặt khác sự kiện cướp đoạt con dấu
không chỉ xảy ra nội bộ công ty dân doanh và công ty quốc doanh, cũng thường
hay xảy ra giữa công ty và công ty, thậm chí xảy ra giữa chính quyền và chính
quyền. Tôi laị xin kể hai câu truyện cướp con dấu trong thời đai hiện nay. Một
câu truyện trong dân gian, một câu truyện trong nhà nước.
Câu truyện dân gian nói về một công ty
ở miền nam Trung Quốc. Trong một vụ tố tụng, phiên thứ nhất tòa phán thua kiện,
nguyên nhân là phía nguyên cáo đưa ra một chứng từ của công ty phía thứ ba. Công
ty bị cáo không phục phán quyết này, trước phiên xử thứ hai, đã ngang nhiên ngụy
tạo một tài liệu của của công ty phía thứ ba có lợi đối với công ty mình, lại
còn cử ra mấy kẻ hung hãn xồng xộc xông vào công ty phía thứ ba làm chứng từ.
Viên chức bảo quản con dấu của công ty phía thứ ba không chống đối phía bên kia,
trong bắt đánh, anh ta đã chạy nấp vào toa lét. Mấy kẻ hung hãn liền cạy tủ, lấy
con dấu, đóng dấu lên đống tài liệu ngụy tạo, sau đó vứt lại con dấu bỏ đi. Khi
tòa xét xử lần thứ hai, công ty bị cáo này hí hửng đắc ý, đưa ra đống tài liệu
có đóng dấu của công ty phía thứ ba. Đại diện của công ty phía thứ ba lên tiếng,
tài liệu ấy là ngụy tạo, con dấu bị cướp đi đóng lên, công ty bị cáo này buột
miệng phủ nhận, họ không cướp con dấu....
Câu truyện phía nhà nước kể chính quyền
cấp trên cướp con dấu của chính quyền cấp dưới. Một thôn trang X có 50 mẫu đất
bị chính quyền thị trấn cấp trên trưng dụng, nhưng trên vấn đề xuất nhượng giá
cả, ban lãnh đạo thôn và chính quyền thị trấn luôn luôn chưa đi đến nhất trí.
Chính quyền thị trấn bằng phương thức mệnh lệnh hành chính bức bách ban lãnh đạo
thôn, nhưng bởi sức ép của đông đảo dân làng ban lãnh đạo thôn luôn luôn không
dám đóng dấu lên biên bản xuất nhượng. Chính quyền thị trấn bị mất mặt giận dữ
cử người đến thôn cướp đi con dấu của ban lãnh đạo thôn, thay ban lãnh đạo thôn
dưới một cấp, đóng dấu lên biên bản xuất
nhượng ruộng đất....
Từ cách mạng văn hóa đến nay có đầy rẫy
sự kiện cướp đoạt con dấu. Câu truyện con dấu của thời đại cách mạng văn hóa và
câu truyện con dấu của thời đại hiện nay có khi dù chỉ trên chi tiết cũng có chỗ tương tự kinh
khủng.
Một người bạn kể cho tôi nghe câu truyện
như sau.. Trong thành phố anh sinh sống, trong phong trào cướp quyền “cuộc cách
mạng tháng giêng”thời kỳ đầu cách mạng văn hóa, trong một nhà máy có hai tổ chức
phái tạo phản thế lực ngang nhau, hai vị tư lệnh phái tạo phản đều biết rõ
trong lòng, nếu sử dung vũ lực cướp đoạt con dấu của đơn vị, thì cả hai phái đều
bại. Họ ngồi lại đàm phán với nhau, cuối cùng ký kết một biên bản hưởng chung
quyền lực, tức là cưa đôi con đấu của đơn vị, mỗi phái giữ một nửa. Khi cần đến
con dấu phải được tư lệnh của hai phái tạo phản gật đầu đồng ý, rồi lấy nửa con
dấu của mình ghép lại đóng lên văn bản hoặc công hàm, đóng dấu xong lại tách ra,
của phái nào phái ấy bảo quản. Điều thú vị là trên con dấu đóng lên đã xuất hiện
một khe hở.
Sau nhiều năm, trong thời kỳ cải cách
mở cửa cũng diễn lai câu truyện trên con dấu có khe hở. Tôi lại xin kể một câu
truyện khác, lịch sử phát tích của một xí nghiệp dân doanh thành công.
Vị này hiện là ông chủ công ty lớn,
trước kia chỉ là một phó tổng giám đốc công ty nhỏ. Giống như phái tạo phản thời
kỳ cách mạng văn hóa, ông lôi kéo một đám người, đầu tiên đánh cho vị tổng giám
đốc công ty bỏ chạy, rồi đe dọa chủ tịch hội đồng quản trị công ty, đòi chủ tịch
hội đồng quản trị lập tức cút xéo, nếu không sẽ đánh què hai chân, vị chủ tịch
hội đồng quản trị non gan nhút nhát, cũng bỏ chạy như ông Tổng giám đốc. Hắn liền
tự phong là chủ tịch hội đồng quản trị kiêm tổng giám đốc công ty, tập trung tất
cả quyền lực vào mình.
Ông chủ tịch hội đồng quản trị cũ, khi
bỏ chạy đã đem theo con dấu công ty. Không có con dấu, công ty không thể vận
hành bình thường, nhưng việc nhỏ này khó
ngăn được hắn, trên đường phố và các ngóc ngách thành phố thị trấn Trung Quốc,
đâu đâu cũng có nghiệp vụ khắc dấu tư nhân, hắn ra lệnh cho một cấp dưới ra hiệu
khắc con dấu trên hè phố khắc lại con dấu công ty. Ở Trung Quốc phải có văn bản
của bộ môn chính quyền có liên quan mới được khắc dấu. Cho nên tự khắc dấu
riêng là hành vi phạm pháp. Hắn to gan lớn mật ngông cuồng, trong mắt hắn chỉ
có quyền lực và tiền, hoàn toàn không có luật pháp. Vấn đề là cùng một lúc có
hai con dấu cũng ảnh hưởng đến nghiệp vụ bình thường của công ty. Ông chủ tịch
hội đồng quản trị cũ cầm con dấu bỏ chạy, cũng lơi dụng con dấu cầm trong tay
ký kết hợp đồng làm cho công ty từ đó trở đi khó phân biệt hợp đồng thật hợp đồng
giả.
Đối với hắn đây vẫn là chuyện vặt, khi
cấp dưới trao con dấu mới khắc cho hắn, hắn lại lệnh cho cấp dưới ra phố mua một
cái rìu, tên cấp dưới thuỗn mặt ra, không hiểu ra làm sao, không biết cấp trên lấy
rìu làm gì, vẫn khẩn trương ra phố mua về một cái rìu, sau đó cứ há mồm trợn mắt
nhìn ông chủ mới, trên bàn làm việc của mình tay trái ông cầm chặt con dấu mới,
tay phải dơ rìu bổ con dấu mới khắc ra làm đôi.
Vị tổng giám đốc kiêm chủ tịch hội đồng
quản trị mới sau khi bổ con dấu ra làm đôi, hạ lệnh: Từ nay trở đi mọi hợp đồng
công ty ký kết, con dấu đóng lên văn bản, nếu có khe hở là thật, không có khe hở
là giả.
Những sự kiện bạo lực tương tự vẫn thường
gặp trong một số xí nghiệp tư nhân, Trung Quốc, chúng dùng phương thức ẩu đả đánh
nhau tranh quyền đoạt lợi, thậm chí thuê hung thủ giết người.Mức độ dã man và lối
làm hoang đường, theo tôi những nhân vật trong phim băng đen Hô- li - út cũng tự
thấy xấu hổ kém cỏi.
Trong tiến trình kinh tế phát triển với
tốc độ cao, hành vi bạo lực như cách mạng văn hóa không chỉ tồn tại trong dân
gian, mà cũng tồn tại trong chính quyền nhà nước.Hãy xem tiến trình đô thị hóa
của Trung Quốc chúng tôi, hàng loạt ngôi nhà cũ bị dỡ bỏ trong một thời gian rất
ngắn, những tòa nhà cao ngút trời cũng mọc lên khỏi mặt đất trong thời gian rất
ngắn. Hành vi dỡ bỏ giải phóng mặt bằng trên qui mô lớn, khiến rất nhiều thành
phố Trung Quốc trong một thời gian giống như bị oanh tạc. Vậy là rất nhiều
thành phố đều thịnh hành chuyện cười như nhau. Chuyện kể rằng cục tình báo
trung ương Mỹ phát hiện Bin La đen ẩn nấp trong thành phố họ sinh sống, máy bay
trinh sát của quân Mỹ bay trên bầu trời thành phố của họ, kết quả phát hiện
thành phố này đã từng bị oanh tạc. Phi công quân Mỹ báo cáo về Tổng bộ:Không biết
ai ra lệnh oanh tạc, Bin La đen rất có thể đã bị chết.
Đằng sau bối cảnh này đã diễn rất nhiều
mô thức phát triển bạo lực cách mạng kiểu cách mạng văn hóa. Để áp chế phản
kháng và tư tưởng bất mãn trong dân gian do chuyện giải phóng mặt bằng gây nên,
một số chính quyền địa phương đã sai hàng loạt cảnh sát cưỡng chế dân không chịu
tháo dỡ giải phóng mặt bằng, hơn mười máy ủi cỡ lớn cùng tiến một lúc, nhanh
chóng húc đổ hàng loạt nhà cũ. Khi những người dân bị cảnh sát cưỡng chế chở đi
lại trở về, đón tiếp họ không phải là vườn nhà của họ, mà là đống đổ nát. Họ đã
trở nên bơ vơ không nơi nương tựa, đành phải chấp nhận hiện thực, vào ở trong những căn hộ do chính quyền địa phương bố
rí cho họ.
Hơn hai năm trước, một hộ gia đình của
thành phố Y, bởi vì không thể thỏa thuận với chính quyền điạ phương về dỡ bỏ và
đền bù, đã bị cưỡng chế di dời. Cả gia định họ đang cơn ngủ say, một tốp người
đội mũ sắt bắc thang leo lên từ tường ngoài vào lúc tang tảng sáng, dùng búa sắt,
gậy sắt đập vỡ kính cửa sổ nhảy vào. Năm người trong gia đình này sau khi chợt
tỉnh dậy, thấy mình đang bị mấy chục người bao vây. Trong khi họ chưa tỉnh hẳn,
hai tên cao to lực lưỡng kéo một người, kéo cả năm người trong gia đình ra khỏi
tổ ấm của họ, hình như người nhà họ đều là tội phạm, nhân viên giải phóng mặt bằng
ra lệnh họ không được mặc quần dài, bắt họ lấy chăn quấn người, không cho đem bất
cứ vật gì, ngay đôi tất cũng không được xỏ, lùa họ xuống gác, ra khỏi nhà
mình.Họ hơi chống cự liền bị đấm đá. Họ bị áp giải lên một chiếc ô tô, ô tô chở
họ đi đến một ngôi nhà không. Họ cuốn chăn ngồi trên nền xi măng giá lạnh. Hơn
hai mươi cảnh sát canh giữ họ, mãi đến mười hai giờ trưa, một quan chức đi đến
nói:
-
Nhà của các người đã bị cưỡng chế dỡ bỏ.
Vị quan chức này bảo họ, đồ đạc trong
nhà các ngươi đã được phòng công chứng đến công chứng, đã thay các người đem đến
căn hộ mới, Gia đình này thấy gỗ đã thành thuyền, đành phải vào ở căn nhà chính
quyền phân phối cho họ. Về sau họ kể lại
chuyện này cảm thấy như quay phim, không giống như chân thực, vì quá ư đột
nhiên. Họ nói hết sức oan ức:
-
Đánh trận còn có thời gian đầu hàng mà.
Kỳ tích kinh
tế của chúng tôi, hay nói một cách khác, hiệu quả kinh tế mà chúng tôi kiêu
hãnh, xét về một mức độ nào đó là có ích cho quyền uy tuyệt đối của chính quyền
địa phương, chỉ một mệnh lệnh hành chính là đủ để thay đổi tất cả. Tuy đơn giản
thô bạo, nhưng thành quả phát triển kinh tế trông thấy ngay. Cho nên tôi muốn
nói với những trí thức phương Tây:Đúng là sự thiếu thấu suốt về chính trị đã tạo
nên sự phát triển bay bổng của kinh tế Trung Quốc.
Giải phóng mặt bằng bằng bạo lực đã trở
thành xu thế lan tràn ở Trung Quốc hiện nay, từ đó cũng gây nên càng nhiều sự
kiện có tính chất quần thể phản kháng đông người. Tháng 11 năm 2009, trong
thành phố Z ở tây nam Trung Quốc, mấy chục nhân viên không rõ thân phận mang ống
thép, xà beng và keo bịt miệng phá cửa xông vào 9 hộ gia đình bị dỡ nhà giải
phóng mặt bằng, cưỡng bức mười ba người đang ngủ say, kéo họ lên ô tô đi khỏi
hiện trường. Để họ không kêu la, đã lấy vải keo băng dính dán lên mồm họ. Trong
cuộc xung đột đã có bốn người bị thương. Sau đó hai máy xúc nổ rầm rầm, 26 ngôi
nhà bị phá dỡ một cách dã man trong chốc lát. Sau khi trời sáng bắt đầu cuộc
xung đột quyết liệt hơn. Các gia đình bị dỡ bỏ và thân hữu của họ gồm hơn ba
mươi người căm phẫn vô cùng, họ dùng vải đỏ và hơn bốn mươi bình ga, bịt kín bốn
hướng ngã tư, yêu cầu chính quyền địa phương giải thích. Do hành vi làm tắc đường
của họ đã ảnh hưởng đến sản xuất và trật tự đời sống của thị dân khác. Cảnh sát
đã xua đuổi họ, bắt giam hình sự đối với bốn người cầm đầu với tội danh tụ tập
đông người gây rối trật tự giao thông.
Cũng tháng 11 năm 2009, một bà chủ gia
đình vì từ chối ký vào văn bản tháo dỡ bởi giá đền bù thấp hơn hẳn giá thị trường,
nhà của bà bị chính quyền địa phương cưỡng
chế dỡ bỏ. Sau khi máy ủi húc đổ cổng, bắt đầu đục phá tường ngoài. Giữa lúc một
phần tường bị nứt và nghiêng đổ, bà chủ nhà uống già nửa cốc rượu uýt ki để có
thêm can đảm, được chồng chi viện, bà đứng trên ban công gác tư nhà mình ném
bình cháy xăng vào nhân viên cưỡng chế và máy ủi ở dưới.Nhân viên cưỡng chế ở
dưới ném đá vào chị ở trên gác. Sau mấy tiếng đồng hồ chống lại, ngôi nhà bốn tầng
của chị vẫn bị san phẳng. Sau đó chị và chồng đều bị xử tội chống đối người thi
hành công vụ, chồng chị bị 8 tháng tù.
Ở Thành Đô có người phụ nữ tên là Đường
Phúc Trân, ngày 13 tháng 11 năm 2009 khi chống đối cưỡng chế dỡ nhà mình, dùng
bình săng đốt cháy, đập kẻ cưỡng chế, sau hơn ba tiếng đồng hồ đối kháng, chị
đã có hành động cực đoan dội săng lên người mình, bật lửa đốt tự thiêu. Sự việc
này cuối cùng đã gây nên một cuộc động đất trong giới truyền thông, tuy chính quyền
địa phương xác định việc tự thiêu của Đường Phúc Trân là cách chống đối bằng bạo
lực, nhưng dư luận xã hội đã đứng về phía Đường Phúc Trân. Người ta bắt đầu
nghi ngờ lo ngại chất vấn, trong “Điều lệ
quản lý tháo dỡ nhà ở giải phóng mặt bằng ở thành phố” có vấn đề. Năm vị giáo
sư của học viện luật đại học Bắc Kinh đã lấy danh nghĩa công dân phổ thông gửi thư
kiến nghị lên ủy ban thường vụ quốc hội tiến hành thẩm tra đối với “Điều lệ quản
lý tháo dỡ nhà ở giải phóng mặt bằng ở thành phố”. Thư kiến nghị vạch rõ: Điều
lệ tháo dỡ trái với quy định của hiến pháp và luật quyền sở hữu tài sản, cơ
quan lập pháp phải tiến hành thẩm tra đối với điều lệ tháo dỡ giải phóng mặt bằng.
Những
năm qua, các sự kiện cưỡng chế tháo dỡ giải phóng mặt bằng dẫn đến mâu thuẫn xã
hội càng ngày càng phổ biến, xung đột xã hội càng ngày càng quyết liệt. Sự việc
Đường Phúc Trân tự thiêu dẫn đến tư tưởng bất mãn tồn tại lâu nay trong xã hội
Trung Quốc. Trước dư luận mạnh mẽ, quốc vụ viện đã bày tỏ rõ ràng sẽ sửa đổi “Điều
lệ quản lý tháo dỡ nhà giải phóng mặt bằng ở thành thị ”.Nhưng trong khi rất
đông người nhận xét hành vi tháo dỡ bằng bạo lực sẽ chấm dứt, kiếm đã xỏ vào
bao,thì hiện thực đã trào lộng họ một cách ngây thơ, giữa lúc dư luận cả nước
nhao nhao lên tiếng ủng hộ Đường Phúc Trân tự thiêu mà chết và sau khi Quốc vụ
viện bày tỏ sẽ sửa đổi điều khoản không hợp lý trong“Điều lệ quản lý tháo dỡ
nhà ở thành phố giải phóng mặt bằng”,những sự kiện tháo dỡ nhà cửa bằng bạo lực
không những không giảm, mà trái lại càng ngày càng diễn ra quyết liệt tại xã hội
Trung quốc.
Ngày 16 tháng 12 năm 2009 một người phụ
nữ buổi trưa ra phố mua thức ăn, khi chị xách làn rau trở về phát hiện nhà mình
đã bị máy ủi san phẳng, dụng cụ gia đình và đồ điện không biết bị đem đi đâu.
Chị muốn khóc mà không khóc nổi. Người nhà chị đang đi làm, vẫn không biết nhà
bị ủi. Chị than thở:
-
Trời rét đất lạnh, ban đêm chúng tôi ngủ thế nào?
Lỳ kỳ hơn nữa là chuyện, địa phương nọ
có hơn 40 công nhân viên chức, bởi vì họ hàng thân thích của họ từ chối tháo dỡ
giải phóng mặt bằng, họ liền bị liên lụy. Khi một khu trửơng địa phương tuyên bố
với lãnh đạo các ngành cấp dưới trong đại hội động viên tháo dỡ giải phóng mặt
bằng: Tất cả nhân viên công chức có họ hàng thân thích của thôn bị tháo dỡ giải
phóng mặt bằng, nếu trước tết nguyên đán vẫn chưa đả thông được thân thích,
không thể hoàn thành tháo dỡ sẽ bị đuổi việc, hơn nữa loa phát thanh trong thôn
taí hiện cảnh tượng thời kỳ đaị cách mạng văn hóa, hàng ngày cứ ra rả thông báo
động viên tháo dỡ từ 8 giờ sáng đến 6 giờ chiều. Thông qua phát thanh chính quyền cảnh cáo dân làng:
- Chính quyền đã hạ quyết tâm rất cao,
việc xây dựng ở đây quyết không vì sự cản
trở của bất cứ kẻ nào mà dừng lại.
....
Những lịch sử và hiện thực cứ thế ùa đến
khiến tôi nhớ lại một đoạn lời nói của Mao Trạch Đông.Đối với từ cách mạng,Mao
Trạch Đông có sự giải thích khiến ta sướng miệng, trong thời kỳ cách mạng văn
hóa ai ai trong chúng tôi cũng có thể đọc thuộc lòng. Mao Trạch Đông nói: “Cách
mạng không phải mời khách ăn cơm, không phải làm văn chương, không phải vẽ
tranh thêu hoa, không thể ăn mặc đẹp đẽ, không thể thong dong thư thả, hào hoa
phong nhã, ôn hòa, lương thiện, cung kính,tiết kiệm và nhường nhịn. Cách mạng
là bạo động, là hành động bạo liệt, một giai cấp lật đổ một giai cấp”.
Cuối xuân đầu hè năm 1973, mấy em nhỏ
sắp tốt nghiệp tiểu học, trong giờ lên lớp, lỉnh ra khỏi trường tiểu học Hướng
Dương, đi dưới nắng qua chiếc cầu bê tông, vừa khánh thành, sang bên kia con sông nhỏ,
trinh sát trường trung học Hải Diêm. Để đề phòng xi măng cứng quá nhanh bị nứt,
người ta trải trên mặt cầu những bao tải đan
bện bằng rơm rạ, mấy người công nhân kéo ống nước cao su tưới nước lên
bao tải để thông qua bao tải nước thấm đều trên mặt cầu bê tông. Đây là lần đầu
tiên trong đời học trò tiểu học, chúng tôi trốn học. Tôi và mấy bạn học dẫm lên
bao tải rơm ướt rườn rượt, đi qua cầu xi măng mới xây.
Với lòng đầy hiếu kỳ, chúng tôi sắp đi
vào trường trung học. Chúng tôi nòng lòng muốn biết thế nào là cách mạng?
Chúng tôi lúc đó đã trải qua sáu năm
cách mạng văn hóa, nhìn tận mắt nghe tận tai nhiều câu chuyện cách mạng, nhưng
vẫn chưa đích thân gia nhập cách mạng. Tuy chúng tôi vẫn thường nói câu nói của
Mao Trạch Đông “Tạo phản có lý”. Nhưng tạo phản có lý chỉ luôn dừng trên đầu lưỡi,
chưa thể hiện trong hành động của mình, cho nên các bạn học lớn hơn chúng tôi một
hai tuổi, vào trung học sớm hơn chúng tôi một hai năm, đều là những kẻ nghênh
ngang kiêu ngạo tự mãn. Với thần thái khinh nhờn, bọn chúng nói:
-Chúng mày có hiểu cái rắm thối, chỉ
sau khi lên trung học chúng mày mới biết thế nào là cách mạng.
Tôi cảm thấy tự ti, trước đó tôi luôn
luôn nhận thức một cách sai lầm mình đã dấn thân vào cách mạng. Tôi là đứa trẻ
đường phố. Cờ đỏ bay đầy phố và báo chữ to đầy đường là ký ức trưởng thành của
chúng tôi. Tôi đã xem tuần hành và vũ đấu hết lần này đến lượt khác, cũng hết lần
này đến lượt khác đi theo bước chân những người lớn đi xem đại hội phê đấu.
Thời đó tôi hâm mộ nhất là những người
lớn hơn tôi khoảng mười tuổi. Họ vừa kịp cuộc xâu chuỗi lớn toàn quốc của hồng
vệ binh bắt đầu từ tháng mười năm 1966. Lúc ấy trường bỏ học làm cách mạng, với
danh nghĩa trao đổi với nhau kinh nghiệm đại cách mạng văn hóa, hồng vệ binh lặn
lội đường dài đi xâu chuỗi bốn phương. Các địa phương trong cả nước xôn xao
thành lập trạm tiếp đón hồng vệ binh, hồng vệ binh chịu trách nhiệm tiếp đón
xâu chuỗi. Trạm tiếp đón lo bố trí ăn ở cho hồng vệ binh, cung cấp lộ phí, lại
còn phải giải quyết vật tư cần thiết và tàu xe vận chuyển cho hồng vệ binh.Hồng
vệ binh trên thị trấn nhỏ của chúng tôi trong túi chỉ có năm hào hoặc một đồng,
chỉ cầm một tờ giấy giới thiệu xâu chuỗi có đóng dấu, lại có thể đi khắp lượt
đông tây nam bắc Trung Quốc. Đáp tầu hỏa không phải tiền, đêm ngủ nhà trọ miễn
phí, ngay đến cơm cũng ăn không. Sau đó khi họ kể lại chuyện cũ đi xâu chuỗi của
mình trong thời đai hồng vệ binh, ai ai cũng mặt mày hơn hở.
Đây cũng là đêm mùa hè tốt đẹp của tôi
trong ký ức. Một vị nào đó trong họ là anh trai của bạn học tôi. Thời đó anh đã
về cắm rễ ở nông thôn, sống một cuộc sống cay đắng và gian khổ, cứ cách hai tháng đi bộ
năm sáu tiếng đồng hồ từ thôn anh ở về đến thị trấn nhỏ chúng tôi. Sau khi ở
nhà vài anh ngày, lại cuốc bộ năm sáu tiếng đồng hồ về căn nhà nho nhỏ ở thôn
quê không có đèn điện, chỉ có đèn dầu. Khi anh về mùa hè, những ngày tết của bọn
trẻ chúng tôi cũng bắt đầu.
Ban đêm khi hóng mát, anh ngồi trong ghế
mây, vắt chân chữ ngũ, tay phe phẩy cái quạt, trước mặt hơn mười đứa chúng tôi
ngồi bệt trên đất vẻ mặt đầy sùng kính, anh chìm đắm trong chuyện cũ tốt đẹp, kể
lại ngày nào bọn anh dơ cao cờ đỏ như thế nào, cánh tay đeo băng đỏ hồng vệ
binh, xếp thành hàng ngũ đi ra khỏi thị trấn nhỏ của chúng tôi oai phong lẫm liệt
như thế nào.
Kế hoạch của họ đi bộ một ngàn km, đến
thăm Thiệu Sơn tỉnh Hồ Nam quê hương Mao
Trạch Đông. Từ Thiệu Sơn Hồ Nam đi đến Tỉnh Cương Sơn Giang Tây căn cứ địa cách
mạng sớm nhất của Mao Trạch Đông.Nhưng họ cuốc bộ một ngày đã mệt lử, vẫy tay chặn một chiếc xe tải đi Thượng
Hải hơn một trăm km, sau hơn chục ngày chơi bời ở Thượng Hải, lại đáp tầu hỏa
đi Bắc Kinh. Ở Bắc Kinh vẫn là chơi bời, sau đó chia thành hai đội, một đội đáp
tàu hỏa đi Thanh Đảo,một đội đi xuống Vũ Hán phía nam...Vậy là đội ngũ của họ
càng chia càng nhỏ. Cuối cùng anh trai bạn học tôi biến thành đội ngũ một người,
một mình anh đi Quảng Châu, gặp được mấy hồng vệ binh đến từ Thẩm Dương đông bắc,
kết bạn đi qua eo biển Quỳnh Châu rồi đi đảo Hải Nam... Sáu tháng sau những hồng
vệ binh trong đội ngũ đi xâu chuỗi này như đám tàn quân, từng đứa, từng đứa từ
các địa phương khác nhau lục tục về đến thị trấn nhỏ của chúng tôi.Họ hỏi nhau,
sau khi chia tay hoạt động xâu chuỗi của từng người như thế nào, thì phát hiện
không có ai đi Thiệu Sơn Hồ Nam và Tỉnh Cương Sơn Giang Tây. Nơi họ đến đều là
khu du lịch nổi tiếng và các thành phố lớn, Với danh nghĩa cách mạng, họ đã
hoàn thành cuộc du sơn ngoạn thủy thú vị nhất và kéo dài nhất trong đời mình.
Khi anh trai bạn học tôi kể đến cuối
cùng, thường hay nhắc lại câu cảm khái muôn phần: “ Non sông to đẹp của Tổ quốc
đã thu hết vào đáy mắt”.
Các lão hồng vệ binh của thị trấn nhỏ
chúng tôi thời đó đều bị phân phối về nông thôn, đang trải qua những năm tháng
gian nan, sau cuộc động loạn rối ren của thời kỳ đầu cách mạng văn hóa, Mao Trạch
Đông đứng trước một hiện thực nặng nề: Từ năm 1966 trở đi, do sự động loạn của
cách mạng, ba năm liền trung học và đại học không chiêu sinh, khiến cho hơn 16
triệu học sinh tốt nghiệp sơ trung và cao trung trong cả nước chờ học tiếp, hoặc
tìm việc làm. Những hồng vệ binh của Mao Trạch Đông đã thể hiện hết mình trong
hành vi vũ đấu và khám nhà trên qui mô lớn, đã quen với lối sống đánh, đập, cướp
phá. Sau khi xã hội tương đối ổn định, kinh tế Trung Quốc cũng đến bên bờ suy sụp,
không thể cung cấp nhiều hơn cơ hội giải
quyết công ăn việc làm ở thị trấn thành phố. 16 triệu hồng vệ binh và thanh
niên trí thức một khi không biết làm gì, cũng đã trở thành nhân tố gây mất ổn định
xã hội.
Mao Trạch Đông quyết định giải quyết
nan đề lớn nhất của xã hội ở thị trấn thành phố Trung Quốc thời đó. Ông vung
tay một cách nhẹ nhõm:
- Thanh niên trí thức về nông thôn, chịu
sự giáo dục lại của bần nông và trung nông lớp dưới.
Sau đó, không biết bao nhiêu gia đình
Trung Quốc diễn ra biết bao nhiêu bi kịch. Con cái họ đeo ba lô chăn chiếu sơ
sài, dời bỏ quê hương trong nước mắt của bố mẹ đưa tiễn đi đến biên cương và
thôn quê, cắm rễ ở những nơi nghèo khó nhất của Trung Quốc, bắt đầu con đường đời
đói rét cơ hàn và bi hoan ly hợp. Những thanh niên trí thức của thị trấn nhỏ
chúng tôi lên núi về làng, người thì đến tận Hắc Long Giang xa xôi, kẻ thì lập
hộ ở thôn quê trong tỉnh. Những hồng vệ binh lão thành bi quan thất vọng đối với
con đường trước mắt, mỗi lần về thăm bố mẹ gia đình mấy hôm, sự từng trải cuộc
đại xâu chuỗi thời kỳ đầu cách mạng văn hóa, nghiễm nhiên là chuyện quá khứ tốt
đẹp nhất trong đời họ. Họ thích kể lại những năm tháng oanh liệt thời đó cho những
hồng vệ binh nhỏ chúng tôi. Chuyện họ kể màu sắc rực rỡ, ấn tượng sâu sắc nhất
trong ký ức của tôi là chuyện kể của họ đối với nhà ga.
Hồng vệ binh của thời kỳ đại xâu chuỗi
chen chúc như nêm, nhung nhúc trên tất cả các đoàn tàu đang chạy trên lục địa rộng
lớn Trung quốc, người thì nằm dưới gầm ghế, kẻ thì ngủ trên giá chứa hành lý tầng
trên, còn có rất nhiều người đứng mấy tiếng đồng hồ trên đoàn tầu đang chạy.
Trong toa lét của toa tàu cũng chen chất ních, không ai có thể vào toa lét. Vậy
là sau khi đoàn tàu đi vào ga dừng lại, các hồng vệ binh lập tức xô đẩy nhau
nhao nhao nhẩy ra khỏi cửa lên xuống và các cửa sổ toa, giống như thuốc đánh
răng bóp ra chảy cuồn cuộn. Sau khi anh chị em hồng vệ binh nhảy xuống tàu, cứ khệnh
khạng cởi quần đứng trên sân ga đại tiểu tiện. Các nữ hồng vệ binh thì quây
thành hết bức tường người này đến bức tường người khác và cứ thế luân lưu ngồi
trong vòng vây người đại tiểu tiện, để phòng những nam hồng vệ binh xấu thói
nhìn trộm, sau đó nam nữ hồng vệ binh lại từ cửa ra vào và cửa sổ toa chen chúc
nhau lên tàu. Sau khi tàu chạy, trên sân ga mùi hôi thối inh, chỗ nào cũng có cứt
đái của nam nữ hồng vệ binh để lại.
Anh trai của bạn học tôi bởi vì say
sưa kể lại quá trình của mình tham gia xâu chuỗi của hồng vệ binh trong thời kỳ
đầu cách mạng văn hóa,trong con mắt và trái tim tôi anh ấy đã từng là tượng
trưng của cách mạng, nhưng sau khi trong tay anh xuất hiện cây sáo trúc, không
kể chuyện xâu chuỗi mà bản thân phong quang vô hạn nữa, anh đột nhiên trở nên lầm
lì ít nói. Anh đã để lại cho tôi một ký ức: Tay phải xách một túi du lịch vải bạt
đã cũ, tay trái cầm chiếc sáo trúc, trên đôi giầy đá bóng cũ rách bám đầy bùn đất.
Đây là cảnh tượng anh từ nông thôn về nhà bố mẹ đẻ. Khi anh ở nhà vài hôm trở về
nông thôn, vẫn là cảnh tượng như thế, chỉ có khác là trên đôi giầy đá bóng cũ
rách không bám dính bùn đất. Mẹ anh đã giặt sạch đôi giầy bóng đá cho anh.
Trong mấy ngày anh ở nhà thường hay ngồi trước cửa sổ thổi sáo trúc, khúc nhạc
cứ đứt đứt nối nối. Đều là những giai điệu ca khúc cách mạng thời kỳ thời đó.Nhưng
những giai điệu cách mạng ấy trong tiếng sáo của anh không còn khí thế hiên
ngang, dường như đã biến thành âm thanh lả lướt. Khi không thổi sáo, anh ngồi
thẫn thờ trước cửa sổ, có lúc chúng tôi đi đến trước cửa sổ nói chuyện với anh,
mắt anh nhìn chúng tôi, song không có bất cứ phản ứng gì.
Một người vốn ăn nói thao thao bất tuyệt,
sau vài năm về nông thôn cắm chốt, hình như thay thành con người khác, trở nên
ít nói. Có lẽ tiếng sáo đã nói thay cho anh, muôn ngàn lời nói có thể đều gửi trong
tiếng sáo. Có đến hơn hai năm, khi tôi đi trên ngõ nhỏ mình ở, chỉ cần nghe tiếng
sáo trúc cất lên, là tôi biết anh đã về nhà. Đây là tiếng sáo duy nhất trong
ngõ chúng tôi, cũng là tín hiệu anh còn tồn tại. Thi thoảng anh thổi nhại tiếng
bán kẹo kéo của người bán hàng khiến các em nhỏ thèm ăn trong ngõ mồ hôi mồ kê
nhễ nhại chạy đến. Trông thấy bọn trẻ bị
ăn quả lừa, anh cười to mấy tiếng rất vui, sau đó anh lại chìm đắm trong im lặng.
Con người tượng trưng cho cách mạng
trong con mắt và trái tim khi tôi còn bé ấy, đã qua đời năm chúng tôi sắp sửa tốt
nghiệp tiểu học. Trước khi chết anh đã về nhà. Lần này anh ở nhà hơn chục ngày, anh không muốn về thôn
quê. Có mấy lần tôi đi qua trước cửa sổ nghe thấy bố anh to tiếng mắng anh
trong nhà, mắng anh háu ăn lại lười biếng, bởi vì anh không chịu về nông thôn.
Anh bày tỏ bằng giọng nói yếu ớt. Anh bảo mình rất mệt, không có sức ra đồng
làm việc. Bố anh chửi anh càng gay gắt hơn, chửi anh lười nhác như một tên
tư sản. Tôi nghe thấy bố anh chửi xơi
xơi:
-
Đồ lười biếng đều cảm thấy mình không có sức lực.
Mẹ đẻ anh cảm thấy trong nhà không thể
cãi chửi suốt ngày, con trai cũng không thể tiếp tục sống như thế, nếu cứ ở lỳ
lâu dài trong thành phố không trờ về nông thôn, sẽ bị người khác cho là tư tưởng
có vấn đề. Bà giỗ ngon giỗ ngọt khuyên con về làng. Anh đã đồng ý. Trước khi
con trai đi, người mẹ luộc cho anh hai quả trứng gà bỏ vào túi.Thời đó đây là
thức ăn quí giá. Tôi trông thấy anh ra đi, tay phải xách túi du lịch cũ rách,
tay trái anh cầm cây sáo trúc, trên chân vẫn là đôi giầy đá bóng cũ rách. Anh
cúi đầu bước đi ẻo lả,dặt dẹo. Tôi trông thấy anh khóc. Anh vừa đi vừa dơ tay
trái cầm sáo trúc,lấy gấu ống tay lau nước mắt.
Đây là lần cuối cùng tôi nhìn thấy anh
đi giữa trần gian. Mấy ngày sau anh bị hôn mê ở thôn quê, được mấy người nông
dân dùng tấm cánh cửa khiêng đến bệnh viện huyện của chúng tôi, bác sĩ chẩn
đoán anh bị bệnh viêm gan da vàng thời kỳ cuối, sau đó anh chết trong xe cứu thương
trên đường đi Thượng Hải. Bố tôi là bác sĩ nói với tôi, khi đưa đến bệnh viện,
gan anh đã co lại rất nhỏ, mà lại rắn như đá. Sau khi anh chết,tiếng sáo duy nhất
thời thiếu niên cũng chết luôn.
Thế nào là cách mạng? Câu trả lời của
tôi trong ký ức đã qua của tôi là đông người rối rắm. Cách mạng khiến đời sống đầy
rẫy “bất khả tri”. Số phận của một con người chỉ trong một sớm một chiều biến
thành hai con người, người thì bay bổng thành đạt trong chốc lát, kẻ thì chỉ
phút chốc sa cơ lỡ vận rơi xuống vực thẳm. Sợi dây gắn bó xã hội giữa con người
với con người cũng khi đứt khi nối trong cách mạng, hôm nay còn là chiến hữu
cách mạng, ngày mai có thể trở thành kẻ thù giai cấp.
Có
hai cảnh tượng cứ lưu luyến cuốn níu trước mặt tôi lúc này.Một cảnh kể lại sự tốt
đẹp của nhân tính, một cảnh nói lên sự xấu xa của tính người.
Cảnh tượng tốt đẹp đến từ người bố của
một bạn học. Lúc đó tôi học năm thứ nhất tiểu học, bố đẻ bạn này thường ngày đối
xử với mọi người thân thiết bị đánh đổ, ông chỉ là một quan chức tép riu trong
thể chế chính trị Đảng cộng sản, vẫn khó mà thoát khỏi tội danh đi theo con đường
tư bản chủ nghĩa.Khi còn bé tôi rất mến ông, bởi vì khi ông gặp tôi trên đường
phố, lần nào ông cũng mỉm cười với tôi.Ông biết tôi là bạn học của con trai
ông. Trong ký ức thuở nhỏ của minh, đây là người lớn duy nhất mỉm cười với tôi
trên đường phố. Ở những người bố bạn học khác, tôi không được mỉm cười thân thiết
như vậy. Sau khi ông bị đánh đổ, tôi cũng mất đi nụ cười khiến mình được sủng
ái mà đâm sợ. Sau khi ông trông thấy tôi, mắt ông nhanh chóng lảng đi. Trong mấy
tháng bị đánh đổ, ông bị dày vò về tinh thần và thể xác. Tôi không biết phái tạo
phản hành hạ ông như thế nào. Mỗi khi tôi nhìn thấy ông đều thấy mặt mũi ông
sưng tím. Con trai ông, bạn học của tôi, đã từng chan chứa nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt như ánh sáng mặt trời.Nhưng sau
khi bố bị đánh đổ, ánh mắt cậu đã bắt đầu
trở nên khiếp sợ.Giờ ra chơi chúng tôi nô nghịch trên bãi tập, cậu thường đứng
một mình ở một góc. Có một buổi sớm, tiếng kẻng vào học chưa nổi lên, chúng tôi
đeo túi sách chạy nhảy vui đùa trên bãi tập, cậu ấy đi đến, sau đó đứng một
mình ở một góc trên bãi tập như thường ngày. Lần này cậu đứng tại chỗ cứ khóc rưng
rức. Từ xa tôi trông thấy người cậu run rẩy, hai tay che kín mặt. Sau đó chúng
tôi được biết, bố cậu đã nhảy xuống giếng tự vẫn trước khi trời sáng. Lúc này
tôi nhìn lại chuyện xưa, tôi tin, bị hành hạ dày vò thậm tệ, ông đã nẩy sinh ý
định tự sát từ lâu, nhưng ông dấu kín trong lòng không hề cho vợ con biết ý
nghĩ này. Trong nội tâm, ông đã nung nấu, lẩn quẩn giưã cái sống và cái chết,cuối
cùng ông đã chọn cái chết.Lúc hơn hai giờ sáng ông lẳng lặng thức dậy, im lặng
chia tay vợ con đang trong giấc ngủ ngon ban đêm, sau đó ông khe khẽ đẩy cửa ra
ngoài đi sang thế giới bên kia. Con trai ông sau đó bảo tôi, lúc hai giờ sáng
hôm đó, trong giấc mơ cậu cảm thấy bố đứng ở giường cậu một lát. Vào một buổi nhập
nhoạng tối hôm trước khi ông nhảy xuống giếng tự vẫn, tôi còn thấy ông đi trên
phố lớn. Trán ông chảy máu tươi, dáng đi cà nhắc, hai bố con ông cùng đi, trong
ráng chiều, tay phải ông bá vai gầy yếu của con trai, nom dáng vui vẻ nhẹ nhõm,
ông mỉm cười nói chuyện với con. Rất nhiều năm về sau, khi tôi viết truyện dài
“Huynh đệ” tại nhà mình ở Bắc Kinh, cảnh tượng ngọt ngào hai bố con họ đi trong
hoàng hôn cứ cuốn níu tôi mãi.Tôi cảm thấy,Tống Phàm Bình có thể là là một nhân
vật đi ra trong cảnh tượng tôi gạt đi không nổi này.
Cảnh tượng xấu xa đến từ cô giáo khi
tôi học năm thứ hai tiểu học. Lúc ra chơi, bon trẻ chúng tôi chạy nhảy tưng
tưng trên bãi tập, các thầy cô giáo thì túm năm tụm ba, vừa nói chuyện vừa nhìn
chúng tôi. Thời ấy trường tiểu học chúng tôi mỗi năm chỉ có ba lớp A B C. Cô
giáo lớp B của tôi thường hay đứng với cô giáo của lớp C. Hai người nói chuyện
rất thân mật,cười khúc kha khúc khích. Khi tôi nô nghịch trên bãi tập, thường
hay ngoái đầu nhìn hai người. Tôi cảm thấy giữa hai người hết sức thân mật, giống
như hai chị em, không chuyện gì không nói với nhau. Nhưng một buổi sớm tôi
khoác cặp sách đến trường rất sớm, lúc ấy trên bãi tập không một bóng người,
tôi liền đi vào lớp học, không ngờ cô giáo chúng tôi lại đến sớm hơn. Cô đang
phê sửa bài tập trước bục giảng. Trông thấy tôi đi vào, cô vẫy tay chào tôi một
cách thần bí, bảo tôi đến trước mặt, sau đó bằng giọng nói hưng phấn xuất phát
từ trong lòng cô bảo tôi, cô giáo lớp C xuất thân trong gia đình địa chủ. Nhà trường
cử người đi về quê hương cô điều tra đã phát hiện ra chuyện này. Hiện giờ cô
giáo ấy đã bị bắt đi thẩm tra. Đầu tiên tôi băn khoăn nhìn nét mặt hưng phấn của
cô giáo chúng tôi. Sau đó trong lòng tràn đầy sợ hãi. Bởi vì tôi luôn luôn nhận
thấy cô giáo lớp C là bạn tốt nhất của cô. Trong những ngày sau đó, khi tôi nô
nghịch trên bãi tập thường xuyên nhìn thấy cô giáo của chúng tôi đứng nói chuyện
vô cùng thân mật với một cô giáo khác. Cảnh tượng này khiến tôi còn bé cảm thấy
rùng mình, cho dù là vũ đấu đẫm máu trên đường phố, cũng khiến tôi càng sợ hơn
cảnh tượng thân mật bề ngoài giữa con người với con người.
Thế nào là cách mạng?Lúc còn bé tôi có
một tấm gương sống động, chính là anh trai tôi. Anh trai tôi là một người cách
mạng trời sinh. “Tạo phản có lý” hình như là nhóm máu của anh. Khi anh còn là một
học sinh năm thứ hai tiểu học đã có cử chỉ cách mạng làm chấn động toàn trường.Cô
giáo chủ nhiệm lớp đứng trên bục giảng phê bình anh nghịch trong giờ lên lớp,
có lẽ lời cô giáo quá gay gắt, khiến anh tôi nổi nóng. Anh đứng lên, bê ghế ngồi
của mình đi lên cạnh bục giảng và để ghế ngay bên cạnh cô giáo. Giữa lúc cô
giáo nhìn anh hoài nghi lo lắng, không biết anh định làm gì, anh liền đứng trên
ghế nhằm đúng huyệt thái dương của cô giáo đấm một quả trời giáng từ trên cao
xuống. Cậu bé mới lên chín tuổi này đã ngang nhiên đấm cô giáo ngất xỉu. Khi tỉnh
lại cô giáo đã nằm trên giường trong bệnh viện.
Sau khi lên trung học, tính cách mạng
của anh trai tôi càng dữ tợn. Ấn tượng sâu sắc nhất của tôi là cô giáo ngữ văn
của anh trai. Sau khi không thể chịu được nữa, cuối cùng cô giáo đã đến thằng
nhà tôi, kể một mạch một lô một lốc những việc xấu xa anh tôi đã làm. Có thể do
bị oan ức, cô giáo đã phát khóc. Lời tố cáo của cô giáo lúc đó cứ thao thao bất
tuyệt, chỉ có một việc đến nay tôi vẫn nhớ, có thể vì thú vị, cho nên tôi còn
nhớ. Đó là vào mùa đông, khi đang nghe giảng bài ngữ văn, anh tôi đã cởi đôi giầy
đá bóng của mình để trên bệ cửa sổ phơi nắng, hai chân anh đi tất ni lông mùi hôi thối bốc lên ngùn ngụt, anh lại ngồi ở
hàng ghế thứ nhất,anh gác hai chân hôi thối lên bàn, chĩa thẳng vào bục giảng. Cô giáo ngữ văn vừa giảng
bài, vừa ngửi mùi hôi thối tỏa ra từ hai chân anh ở cự ly gần, cô liền yêu cầu
anh tôi xỏ giầy vào. Anh tôi cứ lờ tịt, anh bảo anh còn phải phơi nắng đôi giầy
đá bóng.Khi anh trai tôi nói ngón chân anh cứ ngọ nguậy trong tất ni lông, cố gắng
để hai chân mình càng bốc ra mùi hôi thối. Cô giáo ngữ văn uất vô cùng đi đến
trước bệ cửa sổ cầm đôi giày đá bóng anh tôi đang phơi quăng ra ngoài cửa sổ.
Anh trai tôi “Lấy đạo người trị lại thân người”,anh nhảy lên đứng trên bàn học,
lại từ bàn học nhảy lên bục giảng, cầm giáo án của cô giáo ngữ văn, nhảy khỏi bục
giảng, chạy đến trước cửa sổ vứt đi. Sau đó trong tiếng hoan hô của các bạn học
sinh, anh tôi nhảy qua cửa sổ, nhặt đôi giầy của mình, laị nhảy vào cửa sổ, đặt
đôi giầy bóng đá trên bệ cửa sổ tiếp tục phơi nắng. Sau khi trở lại vị trí của
mình, anh tôi tiếp tục gác đôi chân hôi thối lên bàn học. Sau đó giống như một
người chỉ huy, anh vung hai tay chỉ huy các bạn học sinh cất tiếng hoan hô theo
nhịp điệu lên xuống. Anh tôi dương dương tự đắc nhìn cô giáo ngữ văn rầu rầu bước
ra khỏi lớp học. Cô giáo ngữ văn không thể nhảy ra nhảy vào cửa sổ như anh tôi,
cô men theo nhà gác, đi một vòng, nhặt giáo án của mình lên. Khi cô cầm giáo án
đứng lên, nhìn thấy mấy cửa sổ lớp học,học sinh trên lớp đứng chen kín . Bọn
chúng vui cười nhạo báng cô trên đau khổ của người khác.
Tôi nhớ khi cô giáo ngữ văn ra về, bố
tôi nổi giận đùng đùng, vơ luôn chiếc ghế đập anh tôi, anh tôi đã nhanh nhẹn né
tránh. Mẹ tôi vội vàng kéo bố tôi lại, bố tôi thét lên quát mắng anh:
-
Mày đã gây nên bao nhiêu việc xấu xa ở nhà trường!
Anh trai tôi đã thẳng thắn nói : “Con làm cách mạng trong
nhà trường...”.
Bố tôi đẩy mẹ tôi ra , vung nắm đấm định
đấm anh, anh liền chuồn vội, chay đến một đoạn anh cho là khá an toàn, anh nói
tiếp:
-
Con phải làm cách mạng!
Điều này khiến tôi tràn đầy ngưỡng vọng.
Tuy đang trải qua đại cách mạng văn hóa, nhưng khi chúng tôi học tiểu học,rất sợ
thầy cô giáo. Chúng tôi thường xuyên bị thầy cô bức viết kiểm thảo. Khi lên lớp
nói chuyện, hay đùa nghịch phải viết bản kiểm thảo.Bạn học đánh nhau cũng phải
viết bản kiểm thảo. Số bản kiểm thảo tôi viết khi học tiểu học,còn nhiều hơn baì
tập làm văn tôi viết.Mà bản kiểm thảo của chúng tôi đêù bị thầy cô giáo dán
trên tường lớp học, khiến chúng tôi cảm thấy rất xấu hổ bẽ mặt. Việc làm và lời
nói của anh trai tôi, còn cả những lời nói việc làm của các bạn trai khác lớn
hơn chúng tôi một hai tuổi, khiến chúng tôi loáng thoáng cảm thấy sau khi bước
vào trung học sẽ không còn viết bản kiểm thảo, sau khi bước lên trung học sẽ
không còn học sinh sợ thầy cô giáo nữa, mà là thầy cô giáo sợ học sinh. Sau khi
lên trung học, tất cả việc làm bố láo bố lếu đều là hành vi cách mạng.
Cho nên giữa buổi giao thời xuân hè
năm 1973, mấy bạn học chúng tôi đi qua cầu bê tông mới xây, đi vào trường trung
học Hải Diêm bên kia con sông nhỏ. Khi tôi đi qua sân bóng rổ, nhìn thấy có học
sinh đang chơi bóng, khi đi qua bãi tập, trông thấy có học sinh nằm tán gẫu
trên bãi cỏ ở giữa. Chúng tôi đã đi qua hai nhà gác lớp học, hầu như mọi bệ cửa
sổ lớp học đều có học sinh ngồi. Chúng tôi nghe thấy có người gọi tên chúng
tôi. Đó là một bạn trai ở trong ngõ chúng tôi.Cậu ấy là học sinh năm thứ nhất phổ
thông cơ sở lớn hơn chúng tôi một tuổi. Ngồi trên bệ cửa sổ của một lớp học, cậu
ấy vẫy tay chào chúng tôi. Chúng tôi đi đến hổi cậu ấy hiện giờ có phải đang giờ
ra chơi? Cậu ấy lắc đầu đáp đang lên lớp. Cậu ấy dơ tay kéo từng người lên bệ cửa
sổ, kéo vào lớp học của cậu. Cậu bảo chúng tôi lần lượt ngồi trên bệ cửa sổ và
trên bàn học, tràn đầy nhiệt tình cậu giới thiệu chúng tôi với mấy bạn học ngồi
bên cạnh.
Chúng tôi mở rộng tầm mắt. Trong lớp học
ồn ào nhốn nháo, có một số học sinh ngồi trên bàn học, có một số học sinh đi đi
lại lại, còn có hai học sinh cãi chửi nhau cách một bàn học, xem chừng sắp sửa giơ
quả đấm. Một thầy giáo đứng trên bục giảng đang viết đề vật lý trên bảng đen.
Thầy vừa viết vừa giảng giải, không có học trò nào nghe thầy giảng. Thầy hoàn
toàn viết cho mình xem, giảng cho mình nghe.
Cảnh tượng này khiến chúng tôi ngạc
nhiên, há mồm trợn mắt. Chúng tôi chỉ thầy giáo trên bục giảng khe khẽ hỏi bạn
học sinh quen thuộc:
-
Thầy đang giảng bài cho ai?
-
Ông ta giảng bài cho chính mình – Anh bạn đáp.
Chúng tôi cười hì hi, hỏi tiếp:
-
Các bạn không sợ thầy giáo à?
- Sợ thầy ư? – Cậu ấy cười ha ha – Đây
là trung học, đếch phải tiểu học như các cậu. Vừa nói cậu ấy vừa rà mò trong
bàn học lấy ra một mẩu phấn, ném vào thầy giáo trên bục giảng. Thầy giáo nhìn
thấy mẩu phấn bay đến, đã né người tránh sang một bên, rồi coi như không có
chuyện gì xảy ra, thầy tiếp tục giảng bài vật lý cho chính mình.
- Cuối cùng chúng tôi đã biết,thế nào là cách mạng?
Ngày28 tháng 12 năm 2009
Vũ Công Hoan dịch ngày 3 tháng10 năm 2012
Theo cuốn tản văn của Dư Hoa:
“Trung Quốc trong mười từ vựng”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét