Công việc nghiên cứu Truyện Kiều vẫn tiếp diễn
CAO NGỌC THẮNG
Đặt tên cho sách “Từ Kim Vân Kiều đến Truyện Kiều” (Vũ
Nho, Nxb Hội Nhà văn, 2016) tác giả đương nhiên khẳng định Nguyễn Du dựa trên
tác phẩm của Thanh Tâm Tài Tử bên Trung Quốc, để sáng tạo nên tuyệt tác mang
đậm cốt cách Việt Nam; dưới cái tên in đậm đó còn dòng chữ nhỏ “So sánh và bình
luận”.
Tiếp nối con đường nghiên cứu
và hiểu “Truyện Kiều”, một con đường khá dài với nhiều tên tuổi, ở cuốn sách
này PGS-TS Vũ Nho đặt mục tiêu: “Cả cuốn
sách này tôi chỉ làm một việc là so sánh Kim Vân Kiều với Truyện Kiều [hình
như phải đặt ngược lại] và bình luận để
thấy sự sáng tạo to lớn của Nguyễn Du” (tr. 7). Là sự kế tục, hiển nhiên
kết quả của công trình này góp phần làm sáng rõ một số vấn đề, bổ sung một số
điểm mà các công trình trước đó chưa nhắc tới.
Cách làm của tác giả cho thấy
một khối lượng công việc khá lớn khi so sánh và đối chiếu 12 đoạn (Phần hai, từ
tr.25 đến tr.120), so sánh 11 nhân vật (Phần ba, từ tr.121 đến tr.250) và so
sánh một số vấn đề (Phần bốn, từ tr.251 đến tr.324) khác nhau giữa Truyện Kiều
và Kim Vân Kiều. Trước đó (Phần một), tác giả khẳng định: “… một sự thật là Nguyễn Du đã dựa vào tiểu
thuyết chương hồi Kim Vân Kiều để viết tiểu thuyết bằng thơ Truyện Kiều. Cả hai
cùng là tiểu thuyết với cốt truyện, các nhân vật và các chi tiết. Bởi vậy so
sánh là có cơ sở tin cậy”, nhằm giải tỏa nỗi băn khoăn (nếu có) của người
đọc rằng: việc so sánh hai tác phẩm, một bên là tiểu thuyết chương hồi (văn
xuôi) với một bên là tiểu thuyết bằng thơ, truyện thơ, để chỉ ra sự khác biệt
liệu có thỏa đáng? (tr.20). Nỗi băn khoăn ấy, nếu có thì cũng là chuyện thường
tình, nhưng đâu phải trở thành mối lo ngăn cản công việc của người nghiên cứu,
nếu thấy đó là sự cần thiết, không thể đừng. Quả là vậy. Những thao tác so sánh
và bình luận thực hiện trong sách này cho thấy tác giả rất có dụng công thống
kê, so sánh để đi tới những nhận định. Ở Phần hai, 11/12 đối chiếu, so sánh các
đoạn, tác giả đã rút ra tới 111 điểm khác biệt giữa Truyện Kiều và Kim Vân Kiều;
chẳng hạn, về việc Mã Giám Sinh mua Kiều, tác giả rút ra 8 điều khác biệt mà
Nguyễn Du “đã thực hiện” khi viết Truyện Kiều, trong đó có việc tạo ra buổi
“vấn danh” để Mã Giám Sinh khai tên tuổi, quê quán, là thêm nét “mày râu nhẵn
nhụi” để hoàn thiện chân dung vốn đã “áo quần bảnh bao” của chàng họ Mã, và
“cực kỳ quan trọng” khi Nguyễn Du chỉ cần miêu tả “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng” thì đã bộc lộ hết sự thô lỗ, giả danh
người có học – không như trong Kim Vân Kiều Thanh Tâm Tài Tử coi Mã dù sao cũng
không ngông cuồng và vô văn hóa quá mức (tr.54 và 55). Hay, đối chiếu và so
sánh ở đoạn 12 (từ tr.109 đến tr.120), tác giả đã chứng minh trong 7 lần nhớ
của Thúy Kiều, Nguyễn Du chỉ sử dụng 1 trong 3 lần mà Thanh Tâm Tài Tử “nhắc”
đến: “Chỉ có một câu thơ trong Kim Vân
Kiều nói về Kim Trọng. Đó là ‘Riêng mối tình si khôn giũ sạch’. Nhưng Nguyễn Du
đã nói về nỗi nhớ chàng Kim [của Thúy Kiều] với cây lau, hơi may, dặm khuya, vầng trăng. Và tâm trạng thẹn với
những lời thề nguyền cùng với vầng trăng ngày trước. Cụ thể và da diết biết
bao” và “Còn cả một bài thơ dài của
Thúy Kiều về phong cảnh với các loại chim én, chim hồng, chim cuốc, ý tứ tản
mạn, Nguyễn Du chỉ tóm gọn trong hai câu lục bát: ‘Rừng thu từng biếc chen
hồng/ Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn’”.
Phần ba – so sánh các nhân
vật, tác giả cũng có sự đối chiếu nhất quán (về phương pháp) để chỉ ra sự khác
biệt rõ rệt của 11 nhân vật chủ chốt trong rất nhiều nhân vật mà Kim Vân Kiều
và Truyện Kiều cùng khắc họa. Ở mỗi nhân vật, sự so sánh rất chi tiết trên cơ
sở thống kê và đối chiếu giữa hai văn bản, tác giả bày tỏ: “Chúng tôi trong tinh thần so sánh, đối chiếu
để chứng minh rằng Nguyễn Du đã thay đổi không chỉ nội dung của Kim Vân Kiều,
thay đổi kết cấu, nội dung các đoạn, biến đổi các nhân vật chính, mà ngay cả
các nhân vật phụ, trong ngòi bút của Nguyễn Du cũng có những thay đổi khác hẳn
với hình ảnh của họ trong tác phẩm Kim Vân Kiều” (tr.169-170).
Phần bốn, tác giả Vũ Nho đưa
ra ba vấn đề mà ông cho rằng rất quan thiết và rất khác biệt giữa hai tác giả
Nguyễn Du và Thanh Tâm Tài Tử, đó là về tiền bạc, về số phận người phụ nữ và về
triết lý trong Truyện Kiều. Về triết lý, tác giả nhận xét: “Thanh Tâm Tài Tử chỉ kể lại câu chuyện một
cách khách quan, không nhằm minh họa cho một triết thuyết nào, cũng không triết
lý những vấn đề trong cuộc sống. Nhưng Nguyễn Du thì khác”. Dựa trên sự
phân tích của tác giả Thích Nhất Hạnh trong cuốn “Thả một bè lau” và bằng cảm
nhận của mình, Vũ Nho đưa ra lời bình: “Có
thể thấy rằng Nguyễn Du tin vào những điều đó [thuyết tài mệnh tương đố,
thiên mệnh, định mệnh… cho đến chữ nghiệp, chữ thiện căn trong đạo Phật] bằng niềm tin của nghệ sĩ, bằng kiến thức
sách vở, bằng trải nghiệm thực tế và bằng cả những niềm tin trong quan niệm tín
ngưỡng dân gian chứ không phải chỉ là niềm tin của người chuyên tâm, người được
học, được đào luyện bài bản” (tr.297); và, ở chỗ khác: “Chúng tôi cho rằng những triết lý mà Nguyễn
Du bằng trí tuệ của một bậc đại trí, tiếp thu cả các giáo lý hàn lâm lẫn những
kinh nghiệm của dân gian; và cái chính là bằng tấm lòng của một bậc đại nhân,
bằng sự nhạy cảm của một nhà thơ, ông đã tự tạo ra, tự khái quát lên mới chính
là điều đáng nói, đáng bàn kỹ hơn, sâu hơn. Vì triết lý đó là của Nguyễn Du
chiêm nghiệm, Nguyễn Du đúc kết, Nguyễn Du xây dựng nên, trên cơ sở chung đúc
các giá trị tinh hoa sách vở, cùng với sự trải nghiệm của chính mình” (tr.311-312).
Mục tiêu của cuốn sách mà tác
giả Vũ Nho đặt ra và đạt được là rõ ràng, khúc chiết nhờ ở sự nhất quán trong
phương pháp đối chiếu, so sánh giữa hai văn bản Truyện Kiều và Kim Vân Kiều một
cách chi tiết, những bình luận của ông là thỏa đáng. Những thông tin cuốn sách
đưa ra và đề cập rất có ích trong công tác nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm
Truyện Kiều, - một tác phẩm đồ sộ với nhiều điển tích, nhiều tầng ngữ nghĩa,
nhiều cách hiểu khác nhau -, trong nhà trường, bởi nó cung cấp những tri thức
tường minh, giúp người giáo viên bớt khó khăn trong khi điều kiện tiếp xúc với
các nhận định của chuyên gia còn rất hạn chế. Đó cũng là một đóng góp nhất định
của PGS-TS Vũ Nho với môn Kiều học.
Nghiên cứu Nguyễn Du và tác
phẩm Truyện Kiều, không chỉ ở Việt Nam, luôn luôn là niềm cảm hứng của các học
giả và những người yêu thích tài năng xuất chúng của cụ Nguyễn Tiên Điền và đặc
biệt là tác phẩm thơ với 3254 câu lục bát; và chắc chắn còn rất nhiều vấn đề,
chủ đề, đề tài cần được thảo luận xung quanh thi nhân Tố Như và cuộc đời nàng
Kiều “hồng nhan bạc phận”.
Riêng việc đối chiếu và so
sánh giữa hai tác phẩm Truyện Kiều và Kim Vân Kiều, để thấy rõ tài năng và sức
sáng tạo vượt bậc của Đại thi hào nước Việt - Nguyễn Du, đã thu hút rất nhiều
học giả từ xưa đến nay. Tuy nhiên, chưa thấy ai đặt vấn đề: với bút lực như
Nguyễn Du, người đã để lại nhiều áng thơ tuyệt mỹ, sâu sắc nhân văn, nhân bản
bằng chữ Nôm và chữ Hán, như “Văn tế thập loại chúng sinh”, “Độc Tiểu Thanh
Ký”, “Long Thành cầm giả ca”… rồi các tập “Nam Trung tạp ngâm”, “Thanh Hiên thi
tập” và “Bắc hành tạp lục”, vậy vì sao Nguyễn Du lại phải “mượn” tác phẩm Kim
Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Tử để viết nên Truyện Kiều, điều mà sẽ phức tạp hơn
nhiều so với việc tự mình hư cấu một câu chuyện hoàn toàn mới?; làm công việc
này Nguyễn Du có mục đích gì, để đạt mục tiêu gì?
Nguyễn Du không phải là người
đầu tiên và duy nhất làm công việc “mượn” tác phẩm người khác để sáng tạo tác
phẩm của mình, cũng như trong công việc ấy buộc “người làm lại” phải thay đổi
gần như toàn bộ “cái cũ” để làm nên “cái mới” trên nền tảng quan niệm mới về
thế giới quan và nhân sinh quan, để đạt được kết quả vượt trội về nghệ thuật
văn chương – những điều đó chưa phải là câu trả lời thỏa đáng. Bởi dường như
những nghiên cứu đã có, dù đã rất nhiều, chưa làm “bong” ra hết những vỉa tầng
lấp lánh còn náu ẩn dưới lớp ngôn ngữ của thể thơ lục bát mà Truyện Kiều đạt
tới độ tuyệt đỉnh.
QĐND cuối tuần số 1069
Đây là bản gốc
Thêm một công trình nghiên cứu về TK. Chúc mừng bác VN. Tôn vinh TK cũng là tôn vinh nét đặc sắc của tiếng Việt, của nền văn hoá Việt.
Trả lờiXóaCám ơn bạn Lai đã chia sẻ và động viên!
Xóa