Vũ Nho chủ trang
Lục
bát Đồng dao của Trần Lan Vinh
Vũ
Nho
Hơn chục năm về trước Trần Lan
Vinh đã cho xuất bản cuốn “ Gọi mưa”, cuốn đồng dao ở nhà xuất bản Thanh Niên.
Một cuốn sách rất thú vị dành cho trẻ em thời hiện đại. Với tất cả những hiểu
biết về trẻ em và các trò chơi con trẻ, nhà thơ đã tạo được một hướng mới cho mạch
vỉa thơ của mình. Làm mới lại thể đồng dao, một kí ức của văn học dân gian.
Nhà nghiên cứu văn học dân gian
Trần Gia Linh đã tuyển chọn và giới thiệu các bài đồng dao trong cuốn sách nhỏ
“Đồng dao Việt Nam” với 5 chủ đề : đồng
dao về thiên nhiên, đất nước; đồng dao gắn với những trò chơi ở lứa tuổi nhỏ; đồng
dao mô phỏng các hoạt động sản xuất tập cho các em thành người lao động; đồng
dao chứa đựng những tư duy ngộ nghĩnh và trí thông minh của các em; những bài hát
ru ( Nhà xuất bản Giáo dục, 2004). Có thể thấy trong “Lục bát đồng dao” tất cả các chủ đề trên
với các mức độ đậm nhạt khác nhau. Tuy nhiên,
việc mô phỏng các hoạt động sản xuất
và tư duy ngộ nghĩnh không được chú trọng nhiều ở trong tập đồng dao này
của tác giả. Một trong các lí do chủ yếu là nếu “ Gọi mưa” dành cho trẻ em, thì
có vẻ như “ Lục bát đồng dao” không dứt khoát được như vậy. Không tuyên bố, nhưng hình như như đây là “Đồng
dao cho người lớn” như cái cách mà nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã làm trước đây.
Khác chăng là ở tập này Trần Lan Vinh chỉ dùng một thể lục bát, nhưng lại ngắt
dòng cứ hai từ một dòng và trình bày cả
bài thành hai cột song song. Cũng là một sự tìm tòi.
Đọc tập “ Lục
bát đồng dao”, người đọc sẽ thấy cũng như ở tập trước, nội dung của nó thấm đẫm hình ảnh
làng quê với các trò chơi con trẻ càng ngày càng thưa vắng dần bởi trẻ con giờ đang
chơi các trò chơi điện tử và những đồ chơi vô cùng nhiều mẫu mã, hình thức bán
đầy với giá khá rẻ trên thị trường. Chúng tôi ghi nhận những hình thức chơi của
trẻ em gắn liền với các bài đồng dao cổ được khai thác, lưu giữ ở đây: Oản tù tì, Tập tầm vông, Chi chi chành
chành, Kéo cưa lừa xẻ, Thả đỉa ba ba, Bịt mắt bắt dê, Trốn tìm, Đánh chắt, Đánh
chuyền,… Không phải là những bài hát
xưa cũ. Ở đây, là những hình thức mới và nội dung cũng mới. Ví dụ như “oản tù tì”. Đồng dao cũ chỉ là “ Oản tù tì,
ra cái gì? Ra cái – này!”. Kèm theo đó là việc ra nắm đấm ( búa); ra hai ngón
tay ( kéo); ra bàn tay xòe ( giấy). Nắm đấm ( búa) thắng hai ngón tay ( kéo);
Hai ngón tay thắng bàn tay xòe ( kéo cắt
giấy); Bàn tay xòe thắng nắm đấm ( Giấy
bọc búa). Trò chơi chỉ đơn giản vậy. Nhưng hãy xem “Oản tu ti” của Trần Lan
Vinh:
Vại cà đang oản canh cua/ Yêu nhau oản mặn
ra chua tại mồm […]
Tù tì oản nổi niêu cơm/ Tự dưng có khói oản rơm rạ đồng/ Sao không oản
chợ cho đông/ Để đây bán mớ trầu không
cho làng/ Hội soan oản điệu oản đàng/ Xin trời cho oản anh nàng gặp nhau. Cần
phải nói rằng từ “Oản” này được tác giả
dùng rất sáng tạo, rất nhiều nghĩa mà không nghĩa nào có trong từ điển. Chẳng hạn
Từ
điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học 1992, chỉ có một từ “oản” ( Xôi
hoặc bột bánh khảo được nén chặt vào khuôn, đóng thành khối nhỏ hình nón cụt để
cúng – tr 742).
“Thả đỉa ba ba” giờ chỉ còn là một tín hiệu nhắc nhớ trò chơi để nói về chuyện “ Làng tôi trống hội
đang thùng thình xuân”:
Thả đỉa gieo vía ba ba/ Người dưng đâu biết
Xuân già hay non/ Nhà trai chê hến chưa tròn/ Nhà muôi báng lại bồ hòn khó
chơi/ Mưa xuân thả giọt chơi vơi/ Làng tôi đi ngược về xuôi đã từng.
(
Thùng thình xuân)
Người đọc sẽ bắt gặp các sản phẩm nông nghiệp bày bán
ở chợ quê, các loại quà quê, các cảnh quê, đặc biệt là người quê, tình quê thể
hiện hồn quê. Có điều, quà quê nó không ấn
tượng mạnh như trước đây với tư cách như một đặc sản : Bánh gio bảnh tẻ/ Bánh đa bánh dầy/Bún cua nấu bỗng/ Bánh đúc bẻ tay/ Mắm
tôm quệt ngược ( Chợ Nủa) Này quả táo dầm/ Này chùm mận hậu/ Xâu bồ quân chín/
Sấu khô tẩm gừng ( Nắng ô mai) ( tập Gọi mưa). Các hình ảnh đó bây giờ chừng như tản mạn hơn. Và cũng không đơn
thuần nghiêng về kể, mà nghiêng về cảm nhận chủ quan với những chiêm nghiệm, khái
quát. Ví như sự “kể” các loại rau, loại lá quen trong “Gieo
xuân”:
Kể lá là lá ngải xưa/ Kể rau diếp ốc lộn mưa
cầu vồng/ Dọc mùng buôn bán chợ sông/ Cái nóng oi ả đợi mầm đỗ đen/ Tìm rau mà
chả biết tên/ Cứ cài răng lược vườn bên lá phèn/ Chợ lạ chơi bán người quen/ Lá
sung chén rượu nắm nem khề khà…
Hoặc về “Hồn
quê” :
…Sao dời vật đổi non xanh/ Công cha nghĩa mẹ
sinh thành ra con/ Mắt ai đăm đắm giọt buồn/ Sông ngân nước chảy về nguồn mây
trôi/ Bến xưa bên lở bên bồi/ Chốn xưa áo vá mẹ ngồi ngóng con/ Thời gian nước
chảy đá mòn/ Chắp tay xin lạy vong hồn quê hương.
Các cảnh quê điển
hình, nhưng thấp thoáng, dàn trải ra nhiều bài chứ không tập trung vào một bài.
Chẳng hạn :
Mõ trâu đủng đỉnh kéo chiều/ Dòng sông đang
rước cánh diều trắng mây
( Câu
thơ gieo quẻ)
Đóm đồng
đang rước ma chơi/ Dế giun đang gảy đầy vơi khúc đời
(
Chuyện giời ơi)
Mưa xuân đang gọi điếu cày/ Thuốc lào thả
khói quán gầy rạ xiêu
( Chợ xuân)
Con về theo tiếng mõ đưa/ Lộc sen ai chấm lưa thưa mặt hồ
( Lộc sen)
Không chỉ là
kể, không chỉ là tả, mà còn khái quát như
là đúc kết kinh nghiệm, như cách tổng kết của tục ngữ về cõi người, về ứng xử:
Cõi đồng sang sợi mưa bay/ Cõi người đang mải
mặn chay kiếp người
( Câu
thơ gieo quẻ)
Hỏi dòng tìm bến chơi vơi/ Hỏi thanh tao phải
tìm người thanh tao
( Tìm
thanh tao)
Nghe thôi nói cho ít lời/ Bớt cơn cớ sự cho
đời nó êm
(
Rấp ranh)
Lê la vỏ quýt quỵt rươi/ Vén mồm chao chát hết
người hóa ta
(
Mở gói)
Nhà thẳng bĩu môi nhà còng/ Này đây biết tỏng
tòng tong ngắn dài
(
Thẳng chê còng)
Chúng ta đều
biết đồng dao là các bài hát của trẻ con do các em tự đặt lời một phần, còn phần
lớn là do người lớn - người cũng đã có thời là trẻ con- đặt ra cho các em hát,
các em chơi nhằm giúp nhận thức về thiên nhiên, xã hội, thế giới xung quanh, đồng
thời giáo dục tình cảm gia đình, bạn bè, xã hội và quê hương, đất nước. Chúng tôi
đã đề cập đến tính chất đa diện của bài đồng dao. Nó vừa có chất vè của thể loại
vè khi cần kể việc, kể người. Nó lại có chất thơ của thơ ca khi nhìn sự vật bằng
con mắt thẩm mĩ thấm đẫm yêu thương. Và nó có chất nhạc của bài ca khi rất chú ý
đến nhịp điệu, tiết tấu, đặc biệt là các bài đồng dao gắn liền với các trò chơi
như chồng nụ chồng hoa, thả đỉa ba ba,
chi chi chành chành,…
Bây giờ các em và cả những người
lớn ( có một đứa trẻ con trong mình) có thể đọc thơ trẻ em viết và người lớn viết
cho các em, hát các bài hát do các nhạc sĩ chuyên và không chuyên sáng tác dành
riêng cho các em. Bởi thế mà nhu cầu “hát đồng dao” ( bài hát tự phát cho trẻ
em) không quá lớn. Đồng dao muốn thu hút được sự quan tâm của cả các em và cha
mẹ các em thì có hai điểm quan trọng cốt tử. Một là nó phải giàu chất thơ, thực
sự là những bài thơ trong sáng, ngộ nghĩnh, gần gũi với các em. Gần gũi về người
( cha mẹ, ông bà, anh chị em, thầy cô giáo, bạn bè,…) về cảnh ( ngôi
nhà, con đường, dòng sông, lớp học, hoạt động vui chơi,…), về các con vật ( con mèo, con gà, con chó, con vịt, con ngan,
con bò, con trâu,…), về các trò chơi cũ và mới ( Oản tù tì, tập tầm vông, chồng nụ, chồng hoa, thả đỉa ba ba, bịt mắt bắt dê, chơi
games, giải ô chữ, đuổi hình bắt chữ…).
Thứ hai là nó phải tương đối ngắn gọn. Bản thân bài đồng dao mới, dù bất cứ thể
thơ ba chữ, bốn chữ, năm chữ, tám chữ hay lục bát đều cần ngắn, cô đọng. Sự bắt
vần kiểu tự do ngộ nghĩnh của đồng dao cũ cần được khắc phục. Có được hai yếu tố
trên thì khả năng thành công là rất cao. Trong lục bát đồng dao, phần lớn các bài
đều khá dài. Nếu dài mà chặt chẽ, tập
trung thì vẫn có thể chấp nhận. Nhưng dài
mà lại tản mạn, thiếu tập trung là sự hạn chế. Có thể không khó khăn gì để tìm
thấy các ví dụ. Chẳng hạn bài “ Ru kiếp
gió” có thể kết thúc ở trang 165. Bốn câu ở trang 166 sẽ có nhan đề “Ru thân phận”.
Chúng tôi đưa ví dụ thêm bài “ Nỗi nhớ”. Phải nói rằng đây
là bài giàu chất thơ và khá hoàn chỉnh.
Nhưng có thể dễ dàng tách thành hai bài. Bài 1 là “Nỗi nhớ” :
Áo the khăn xếp cau trầu/ Lới lơ câu hát theo nhau má hồng
Ra xuân chân mạ bồng bồng/ Tại em nón trắng đèo bòng thân tôi
Mắt người thả sợi mây trôi/ Mắt tôi nỗi nhớ chơi vơi yếm đào
Đu xanh nhún bổng cành cao/ Chiều nghiêng ta thả nhau vào ước mơ
Bài 2 là “ Yêu thầm”:
Dòng sông dệt những trang thơ/ Sợi thương sợi nhớ giăng tơ nỗi niềm
Chiều nghiêng bởi tại chiều nghiêng/ Tại người thổn thức cái duyên yêu
thầm.
Ở các bài khác việc dư câu không ăn
nhập vào chủ đề, không ăn nhập vào tên bài và mạch kể,…tao ra ấn tượng nuối tiếc
cho người đọc.
Không phải bây giờ Trần Lan Vinh
mới làm đồng dao bằng Lục bát. Trong
cuốn sách “Đồng dao Việt Nam” của Trần Gia Linh đã dẫn, chúng tôi thống kê có tới
65 bài lục bát trên tổng số 172 bài, tỉ lệ 37,79% (ông Trần Gia Linh đã trích lặp
4 bài, số bài trong tập thành 176). Cái
mới lạ ở đây là lục bát cắt dòng. Về mắt nhìn tạo cảm giác lạ. Về cách đọc nó cũng
tạo một ấn tượng mới. Hết cột bên trái qua cột bên phải. Thật là tiếc khi chỉ
duy nhất một lần tác giả kết thúc bằng câu sáu ( Bài “Thẳng chê còng” ( trang
141-142). Cái kết bằng câu sáu tạo ra sự hụt hẫng, sự lưng chừng, sự lửng lơ…là
một thủ pháp quan trọng của lục bát. Một số chỗ, tác giả cố ý để “lạc vần”. Chẳng
hạn như ở các trang 17, 48, 49, 84, 86, 92, 99, 115, 140, 141, 143, 148, 152, 159,
178, 180, 186, 188, 194. Chúng tôi cho rằng đây là thử nghiệm của tác giả. Một
số chỗ lạc vần câu trên nhưng để tiếp vần câu dưới là hợp lí ( chẳng hạn trang
48, 49, 84,86…). Nhưng có những chỗ không cần lạc vần vì không cần thiết ( trang 143, 152)
không tạo hiệu ứng nghệ thuật ( trang
92, 115). Một vài từ ngữ xuất hiện quá nhiều, đôi khi không rõ nghĩa. Chẳng hạn
từ “vấn” - hạt mưa vấn đồng ( trang 11),
Chợ nào một vấn gió đưa ( 15), Chợ Viềng năm một vấn thôi ( 16), Về nhà hỏi trẻ
là ra vấn đồng ( 77) Hỏ đời được mấy vấn may (91) Những chuyện trăn trở canh
khuya vấn đời (98) Bởi con dường đất rạ men vấn đồng ( 108) Ăn trầu phải mặn vấn
vôi ( 123) Để đàn niêng niễng cơ cầu vấn trưa ( 130) Gặp ngay vấn hội lùng tùng
( 132) Giêng hai lộc trẩy vấn dài ( 143) Miệng nào mặn vấn cho nhau phải lòng (
149) Đồng bừa bận vấn cao quần ( 156) Thích nâu xin giải vấn chuyền đất nâu (
171) Véo von sáo sậu chuyền xưa vấn cầy ( 172) Vi vu tiếng sáo đồng say vấn mùa
( 172) Chi chi chán khóc lại sang vấn cười ( 178) Lười rõ là lười đòi cưới vấn
chăm ( 191)…
Dù vậy chúng tôi đánh vẫn đánh giá cao sự tìn tòi của tác giả “Lục
bát đồng dao”. Đây là đồng dao cho mọi lứa tuổi, nhưng nghiêng về cho người lớn.
Có rất nhiều câu lục bát là nhưng câu thơ hay, độc đáo mà ta có thể tìm thấy nó
lẫn trong các bài dài. Xin dẫn ra một phần
của bài “ Cháu gọi bà” :
Bà tôi rổ bỏng rổ khoai/ Mớ cua mớ ốc mớ trai nổi chìm
Bước về cát vỡ chân chim/ Già nương bóng gậy nắng chìm vạt sương
Đồng chiều bìm bịp kêu thương/ Bà ơi cháu gọi đồng sương dần mờ
Bạn đọc có thể tùy duyên, tùy tâm,
tự mình chiêm nghiệm và cảm nhận
“Lục bát đồng dao”.
Hà Nội, tháng một 2016
In báo Văn Nghệ số 25 tháng 6/2016. Đây là bản đầy đủ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét