UỐNG RƯỢU TẮC KÈ NHỚ
CHIẾN TRƯỜNG NAM LÀO
(1972)
Đặng Bảo Thạch
Rừng cháy trăng mờ suối
cạn khô
Tắc kè lạc giọng gọi sang
mùa
Rượu nồng một chén đà
lấng khấng
Uống cả vào lòng tiếng
gọi xưa.
Lời bình của Nguyễn Thị Lan
1. Thơ tứ tuyệt là thể thơ quen thuộc với người Việt Nam.
Thể thơ nhỏ bé này trong những năm gần đây hình như được mọi người chú ý nhiều
hơn. Đã xuất hiện những công trình tương đối lớn chuyên dịch thơ tứ tuyệt.
Nhiều tập thơ tứ tuyệt của những nhà thơ có tiếng đã được xuất bản. Các cuộc
bình thơ tứ tuyệt, thi thơ tứ tuyệt, sáng tác thơ tứ tuyệt đã được một số tờ
báo, tạp chí tổ chức.
2. Trong khuôn khổ một bài viết nhỏ, người viết xin giới
thiệu bài thơ tứ tuyệt của Đặng Bảo Thạch. Bài thơ được in trong Tuyển tập “Thơ
Hải Dương 2000 – 2010” (Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Hải Dương – 2011, trang
183).
Bài thơ là một nỗi nhớ.
Về thể loại thi phẩm được viết theo thể thất ngôn tứ
tuyệt.
Hai câu đầu, câu "khai" và câu
"thừa":
Rừng cháy trăng mờ suối
cạn khô
Tắc kè lạc giọng gọi sang
mùa
là hai câu thơ gợi chuyện, gợi về một quãng đời có thật
trong cuộc đời nhà thơ: những năm chiến đấu ở chiến trường Nam Lào. Một khung
cảnh thiên nhiên trong chiến tranh, thiên nhiên ở chiến trường đã được tạo
dựng.
Mười bốn từ không có một chữ "nhớ" nào mà nỗi
nhớ cứ hiện lên mồn một khung cảnh chiến trường xưa với "rừng", "trăng", "suối".
Rừng thì cháy ngùn ngụt bốc lên tận trời xanh làm cho vầng nguyệt phải mờ, ngọt
lửa bạo tàn khiến cho dòng suối khô kiệt. Cảnh chiến trường khốc liệt như nỗi
đau chết lặng của con người. Rồi tiếng tắc kè lảnh lót, da diết trong nỗi nhớ,
lay động tâm can nhà thơ. Tắc kè gọi sang mùa. Tắc kè mong mùa mưa đến mang lại
sự sinh sôi, mát lành, nguồn sống cho cỏ cây, muôn thú nơi đây. Tắc kè gọi đến
"lạc giọng".
Có cái gì xao xuyến, rưng rưng trong ta. Có phải vì cái
khát khao cháy bỏng, khát khao đến quên mình của con tắc kè nhỏ bé kia. Như vậy
sự sống không bị hủy diệt, sự sống vẫn ấp ủ, sự sống sẽ hồi sinh trong tiếng
kêu của con tắc kè đó. Là hai câu thơ gợi chuyện mà tình ý thơ đã lan tỏa ngoài
lời.
Trong thơ tứ tuyệt câu ba thường được chú trọng hơn, đó
là câu "chuyển" . Hai câu đầu diễn tả cảnh sắc thiên nhiên ở chiến
trường, đến câu thứ ba chuyển sang con người:
"Rượu nồng một
chén đà lấng khấng"
Rượu "một chén"
mà người uống đã có vẻ say ("lấng
khấng"). Thực tế một chén nhỏ rượu thuốc làm sao say được. Người uống
không say rượu mà say kỉ niệm. Chén rượu tắc kè như một tác nhân mở cánh cửa
thời gian, mở cánh cửa lòng anh, đưa anh về quá khứ sống lại với kỉ niệm xưa:
những năm tháng gian khổ, hào hùng mà mỗi người lính hồ dễ mấy ai quên.
Bài thơ kết lại bằng câu "hợp":
"Uống cả vào
lòng tiếng gọi xưa"
đầy dư vị,
dư vang. Giữ nhiệm vụ khép lại bài thơ nhưng câu thơ lại mở ra cả một trời
thương nhớ.
Trong thơ Đường, câu kết ("hợp") là câu khó
nhất; khó vì phải khép lại một cách tự nhiên, vừa để lại dư vị "như tiễn
đưa bên sông quay về", "lời hết mà ý chưa hết". Câu kết này đã
đáp ứng được yêu cầu đó. Ở đây, câu "hợp" cho ta thấy tất cả hình
ảnh, tâm tư nhà thơ hiện ra rõ; không gian chiến trường - hậu phương bỗng nối
liền; thời gian như được mở rộng (xưa - nay).
Cũng cần nói thêm về cái "tứ" của bài thơ. Tứ
thơ "uống rượu" thật độc đáo. Xưa nay các thi nhân thường mượn chén
rượu để giải sầu hoặc để khêu gợi cảm hứng, với Đặng Bảo Thạch, anh uống rượu
để gợi nhớ, để sống với kỉ niệm.
Sự phong phú của tâm hồn người làm thơ tỏa ra từ bên
trong của lời, của ý, mang lại cho bài thơ vẻ đẹp trầm tĩnh, kín đáo.
Về sự hàm súc của thơ, có người nói
"thơ là một sự dồn nén năng lượng". Bài thơ này là một sự dồn nén
năng lượng: cô đúc, gợi cảm, ngôn từ chọn lọc, không một chữ thừa. Chỉ có bốn
câu, hai mươi tám chữ mà có cả rừng, trăng, suối, cả tiếng gọi sang mùa của tắc
kè, có cả tư thế uống rượu, cả tâm tình của người uống rượu. Bài thơ ngôn từ ít
mà lắm kỷ niệm, nhiều bâng khuâng.
Cấu trúc bài thơ gọn nhẹ, ngôn từ
gợi nhiều hơn tả. Bố cục của thi phẩm gợi nhớ bố cục của bài Đường thi: hai câu
đầu nặng tả cảnh, hai câu sau nặng tả tình. Ở hai câu cuối của bài thơ, cảnh
chuyện bị đẩy ra ngoài như những dấu vết xưa, dành cho nỗi lòng nhà thơ ngự
trị. Bao trùm bài thơ là cái tình sâu nặng của người chiến sĩ "nhớ chiến trường". Bài thơ hàm chứa
tình cảm sâu sắc của một trái tim giàu yêu thương.
"Uống rượu tắc kè nhớ chiến trường Nam Lào
(1972)" là một bài thơ tứ tuyệt man mác phong vị Đường thi, có sức ám ảnh
người đọc.
Hải
Dương, đầu Đông năm Tân Mão (2011)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét