Chu Xuân Giao
ĐÔI LỜI NÓI ĐẦU
Trong
những ngày qua, lại một “cuộc chiến” nổ ra! Tranh luận về việc vinh
danh các nhà tiên phong chữ quốc ngữ. Trong tranh luận, thậm chí “tranh
cãi”, ngoài những lập luận đúng mực, khó tránh khỏi những cách nhìn cực
đoan, chẳng hạn như hoặc
1
Chê bỏ quá khứ một cách tuyệt đối! như “nếu không có quốc ngữ, chúng ta
ngày nay mù chữ rồi!”.vv . Điều hẳn không đúng, bỏi vì dân TQ, Nhật,
Hàn .. ngày nay có mù chữ đâu?
2 Viễn mơ vào quá khứ! Như “Thực dân Pháp tiêu diệt Hán Nôm”, “Mất Hán Nôm là mất hồn dân tộc”..
Trong các “lý lẽ” đó, tôi cảm nhận một điều, hoặc là do “nóng đầu” hay là do không rõ “Hán Nôm” thực sự ra sao. Chẳng hạn như
-
Nêu gương Nhật Bản, Hàn Quốc nhưng bỏ qua thực tế là chữ “nôm” của hai
nước này như Hiranaga,Katanaka,Hangul khác xa chữ Nôm của Việt Nam, về
mặt cấu tạo. Dẫn tới tính khó phát triển của chữ nôm..vv
-
Ca ngợi tính “tượng hình”,”tượng ý” của chữ hán, vẻ đẹp của nó vv. Như
thể có cái gì “thiêng liêng”, “cao đạo”,”thâm trầm”,”minh triết đông
phương”. Bỏ qua thực tế là phần lớn chữ Hán chỉ dùng phép “hình thanh” ,
một phép ký âm lạc hậu và không chính xác..vv
Điều
đó, cũng bình thường. Từ đầu thế kỷ 20 , chính các nhà nho thức thòi đã
nhận thức sưcc mạnh của “quốc ngữ”, tự giải ảo. Cổ động, lập trường dạy
quốc ngữ. Trải qua dăm thế hệ, đến nay thì cả nhưng “cụ” 80 tuổi cũng
chằng mấy ai đọc được chữ Hán , huống hồ là chữ Nôm.
Vì thế, trong tinh thần “cùng học”, tôi cố gắng viết lại những gì mình đã tìm hiểu, không phải là để “bảo vệ quốc ngữ”!
Vì
quốc ngữ có sức sống mãnh liệt, chả cần ai bênh vực! Bài sẽ chia thành
nhiều kỳ, bởi vì vấn đề phức tạp, vả lại trên mạng khó ai có thời giờ
đọc một bài dài .. đại cà sa! Nó bao gồm các phần:
1/Tổng quan 2/Chữ "Nôm" tại Nhật Bản và Triều Tiên 3/Chữ Hán , 4/Chữ Nôm, 5/Quốc Ngữ 6/Kết luận.
Phần “Tổng quan” cố tóm tắt nội dung, ý chính , và sẽ được khai triển chi tiết trong các chương sau.
Với sự hiểu biết “không chuyên” , mong các bạn cùng chia sẻ, góp ý.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
TỔNG QUAN
Trong tranh cãi về Quốc Ngữ-hán nôm tôi thường hay nghe người ta .. mơ và ta thán.
Nào
là bỏ Hán Nôm làm mất cái “hồn dân tộc”, “thực dân Pháp” tiêu diệt Hán
Nôm... và mơ về “quá khứ cha ông”. Mơ , giá được như người Nhật , Hàn.
Trong
xã hội cổ truyền , với truyền thống “biết dăm chữ bỏ bụng”, mang ước mơ
“võng anh đi trước võng nàng theo sau”, nho sĩ là “tiên chỉ” trong
làng, “thầy đồ” được trong vọng, xã hội VN thủa xưa , cũng như các nước
“đồng văn” không hoàn toàn “thất học”. Thế nhưng phải giải quyết các khó
khăn của nó. Phải giải quyết thực sự! Không đơn giản như khi có loại
chữ cái, an-pha-bê.
Chữ Hán có độ 50.000 chữ. Chả ai có thể nhớ hết.
Nhưng muốn thoát “mù” thì cũng ... dễ!
“Biết dăm chữ” như bà mẹ quê dẫn con đến thầy đồ, thì cũng không gọi là mù.
Thế nhưng, thế thì chẳng đủ. Thoát “mù chữ” chưa phải là có “học”.
Muốn đọc báo , phải biết cỡ 2000-3000 chữ.
Muốn gọi là có “học vấn” , phải biết cỡ 8000 chữ.
Muốn đọc cổ văn? Thì .. vô hạn! Chỉ còn nước tra tự điển , và có đào tạo tử tế.
Có lần, tôi đưa cho bạn tôi, một kỹ sư người Bắc Kinh, bản “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” và hỏi
Thứ này mày đọc được không?
Tao chịu!
Nó
thế! Bạn tôi cũng “chữ nghĩa”, trình độ đại học. Thành thử, người Việt
mơ “bỏ bụng” vài trăm chữ , mà nghĩ mình có thể đọc câu đối, văn chương,
lịch sử .. để “giữ hồn dân tộc” thì là.. mơ! Người Hoa phải học, phải
dùng thường ngày nên đành học và nhớ. Nếu không dùng thường ngày , sẽ
quên ngay. Các nhà giáo dục đừng mơ dạy học sinh vài trăm chữ Hán.
“NÔM” NHẬT , HÀN – Hiragana , Katanaka – Hangul
Khi mơ giống như Nhật, Hàn thì cần biết rằng “nôm” nhật khác xa “nôm” Việt.
Ở
các nước này, thí dụ như Nhật, khác Việt Nam, từ thời xa xưa , đã tự
tao ra “nôm” của họ như Hiragana(TK 5), Katanaka (TK 10) , Hangul ( TK
15) để bổ sung cho Hán tư Kanji (Nhật) , Hancha(Hàn).
Khác
với chữ Nôm , phần lớn dựa trên “ghép hai chữ hán, một chỉ nghĩa , một
gợi âm” , các thứ chữ này là hoàn toàn “ký âm” , một loại “alphabet” như
ở Tây Phương.
Thí dụ như số ký tự trong các loại “nôm” này là:
Katanaka - 48
Hiragana - 46
Hangul- 28
Để tạo chữ “nôm” người Nhật dùng chữ một số chữ Hán, bỏ ý nghĩa, giản hóa để ký âm. Chằng hạn như lấy chữ Hán để tạo Hiragana:
安 ( Hán Việt:“An”) , viết thành あ để ghi âm “A”
宇 ( Hán Việt:”Vũ”) , viết thành う để ghi âm “U”
Với hệ thống ký tự đơn giản đó, để thoát mù chữ, rất đơn giản.
Người ta chỉ cần đến chữ Hán khi học cao hơn. Trẻ con không cần chữ Hán đã có thể đọc sách.
Và
muốn học Hán Tự thì phải có lộ trình. Như ở Nhật bản phải chia ra như
sau: Tiếu học 1006 chữ , Trung học 950 chữ. Các chữ này là chữ “thường
dụng”. Như thế tổng cộng chừng 2000 chữ.
Và không phải là dễ cho học trò. Nếu ở Mỹ , số ngày học trong năm của học sinh trung bình là 178 ngày thì ở Nhật là 240 ngày.
Thế thì ta có thể hỏi, tại sao người Nhật “khổ” thế với chữ viết, phải chăng họ chỉ muốn giữ “hồn Nhật”?
Không hẳn thế, tuy đó là một lý do, mà chủ yếu là khó có chọn lựa khác.
Hệ
thống ký âm Nhật Bản đã có quá trinh phát triển đén 15 thế kỷ ( khác
chữ Nôm VN nhiều lắm!) , nhưng có giới hạn của nó , khiến cho nhiêu lúc
dùng kèm Hán Tự (Kanji) lại tiện lợi hơn, viết ngắn hơn, dễ hiẻu hơn.
Nếu
tiếng Việt có nhiều thanh điệu (6 thanh) thì tiếng Nhật ( và Hàn) không
có. Không có thanh điệu tất phải là đa âm, nói dài hơn! Thí dụ người
việt nói “TÔI”, vỏn vẹn một âm, thì người Nhật phải dùng đến ba âm tiết
WA-TA-SHI. Bởi thiếu thanh âm nên một từ Hán chuyển sang Hán Việt khó bị
lẫn lộn như tiếng Nhật. Lấy ví dụ tên hai thành phố TO-KY-O , KY-O-TO
thì người Việt đọc là “ĐÔNG-KINH”, “KINH-ĐÔ”. Chữ ĐÔ(都) và chữ ĐÔNG (東),
người Nhật phát âm thanh một, “TÔ”. Ngoài việc dễ lẫn lộn, gây hiểu
lầm, do tính đa-âm độ dài của chữ khiến phải viết dài dòng. Viết bằng
chữ Hán đâm ra nhanh hơn.
Thí
dụ ta muốn dùng từ “chí” để nói “có CHÍ thì nên”, từ CHÍ là Hán Việt
của 志. Viết quốc ngữ rất gọn. Người Nhật “khổ” hơn. Họ phải nói “chí”
thành ko-ko-ro-za-shi. Dùng Hiragana こころざし hay Katakana ココロザシ , rất
phiền. Họ viết “tắt” bằng Kanji 志 , cho nó nhanh!
NÔM VIỆT
Bây giờ chúng ta thử .. vất bỏ thứ chữ “thực dân”, hãy trở lại chữ Nôm để “giữ hồn dân tộc” xem sao nhé! Thay vì viết
“CÓ CHÍ THÌ NÊN” hãy thử viết chữ Nôm:
固志旹揇
Xem ra rất Dân Tộc. Nếu dùng bút lông mà viểt một bức “thi pháp” thì thật tuyệt vời. Thế nhưng .. đọc ra sao? Thế này:
Chữ 固 , vốn là chữ Hán , âm Hán Viêt là “CỐ”, có nghĩa là “bền chắc...” , nghe giống “CÓ” , nên đọc “nôm” thanh “CÓ”.
Chữ 志 , là chữ Hán, âm Hán Việt là “CHÍ”.
Chữ 旹 , là chữ Hán , âm Hán Việt là “THỜI”, “THÌ” , có nghĩa là “thời gian , thời giờ” , nên đọc thành “THÌ”.
Chữ 揇 thì.. phiền hơn. Nếu tra từ điển Hán sẽ không có. Đó là từ Nôm, được ghép bởi hai chữ Hán:
南 : Nam nghĩa là "phương nam" , và
扌thủ , nghĩa là "tay" .
"NAM" âm gần giống "NÊN" . "Tay" hàm nghĩa là "làm". Bởi thế đọc là "NÊN".
Kể ra, ngoài phải biết chữ Hán cũng cần phải thêm chút .. suy luận để hiểu nhỉ?
Chưa hết! Chữ Nôm không có chuẩn, nguyên tắc quy định, mỗi người có thể viết một kiểu, tùy ý. Nên nó có thể rất .. nhiều cách.
Để viết “CÓ” ta có thể dùng 固 , 箇, 𣎏 . Để viết “THÌ” ta có thể dùng 旹, 时, 時. Để viết “NÊN” ta có thể dùng 揇, 年, 𢧚.
Qua
ví dụ trên, ta có thể thấy, khác với hai nước “đồng văn” đã phân tích
ngữ âm của họ, chuẩn hóa thành bộ chữ cái, Việt Nam đã không thoát khỏi
chữ Hán với sự phức tạp của nó. Để hiểu tính phúc tạp này, thiết tưởng
cũng nên hiểu sơ lược về chữ Hán.
CHỮ HÁN
Trước hết, để tạo chữ, chữ Hán dùng sáu cách , gọi là “lục thư”:
Tượng hình , Chỉ sự , Hình thanh , Hội ý , Chuyển chú và Giả tá.
-Tượng
hình- Đây là cách đơn giản nhất mà loài người đã dùng đầu tiên từ thủa
sơ khai khi chữ viết nảy sinh, như chữ Ai Cập thủa đầu tiên. Nó không có
gì là “huyền bí”, “thâm sâu”. Đơn giản là người ta muốn viết “con bò”
thì vẽ con bò , “con ngựa” thì vẽ con ngựa. Người Trung Hoa “vẽ” hình
người, có hai chân - 人 đọc là “nhân”. Con ngựa , có bờm, bốn chân - 馬 –
“Mã” . Người đàn bà - 女 – “Nữ” .
-Chỉ
sự- Không thể nào “vẽ” mọi sự! Nên người ta cần mô tả, chắng hạn như vẽ
một gạch ngang, thêm một thanh đứng, thêm một vạch ngắn ở trên thành
chữ “Thượng” 上 , ở dưới thành chữ “Hạ” 下.
-Hội
ý. Chẳng thể “tương hình”,”chỉ sự” mọi sự vật. Người ta phải gom các
chữ lại để gợi ý. Chằng hạn như dùng “mái nhà” 宀 che trên “đàn bà” 女
thành chữ 安 , “An”. Người phụ nữ được che chở bởi mái nhà, thế chằng
phải là An toàn sao? Trên là mái nhà 宀 , dưới là con lợn 豕thì thành chữ
家, “gia”.
-
Chuyển Chú và Giả tá: đây là hai phép “dùng đỡ”. Ở một số chữ, người ta
dùng “chuyển chú” , nghĩa là “dùng tạm” thanh âm một chữ để viết chữ
khác có nghĩa gần giống, thí dụ như, dùng chữ “trường” 長 là dài để viết
chữ “trưởng” nghĩa là lớn lên; thậm chí có nghĩa khác hằn như dùng chữ
“vạn” 萬nghĩa là “con bò cạp” để “giả tá” thành chữ “vạn” nghĩa là
10.000.
-Hình
thanh: Ý tưởng con người là vô hạn! ngôn ngữ do đó cứ phát triển, từ
ngữ cứ thế mà phát sinh. Ta không thể nào “vẽ” mãi, “miêu tả” hoài, cho
dù là . họa sĩ! Chữ Hán cũng phát triển giống như mọi thứ chữ trên thế
giới, tiến tới “ghi âm” tiếng nói! Và đó là phép “hình thanh” , nghĩa là
ghép các chữ có sẵn , phần “hình” gợi ý , phần “thanh” gợi âm thanh.
Chỉ
“gợi” gần gần mà thôi. Ý gần gần đâu đó! Âm nghe giông giống. Chằng hạn như:
-Đã
có chữ “thành” 成 , nghĩa là [trở] thành, cần viết chữ “thành” nghĩa là
thành [trì], thì ghép thêm bộ “thổ” 土, nghĩa là “đất” để gợi ý , trở nên
chữ 城.
-Đã
có chữ “mã” 馬, là con ngựa, cần viết chữ “ma” có nghĩa là người mẹ,
ghép thêm bộ “nữ”, nghĩa là đàn bà để gợi ý , trở nên chữ 媽. Đàn bà +
Con Ngựa thành .. Mẹ !
Ấy là “hình thanh”!
Và đó là phép cấu tạo chính của chũ Hán, theo nhiều nghiên cứu, nó chiếm khoảng 80-90% số từ Hán.
Trên
thế giới, từ thủa xa xưa, khoảng ba ngàn năm trước, các hệ thống chữ
viết đã phát triền lên thành chữ ký âm, đơn giản. Ngay cả chũ Ai Cập
thời kỳ sau, vẫn trông tưởng như “tượng hình”. Không phải! Người ta có
thê “đánh vần”, bởi nó đã phát triển thành “ký âm”. Nó chả có gì là
“huyền bí”. Ngay cả mẫu tự “A” mà chúng ta ngay nay dùng, cũng có “tiền
thân tượng hình” là .. con bò! Con bò gọi là “aleph” , người xưa vẽ đầu
bò có hai sừng. Dần dà , lấy đó ghi âm “a”, lộn ngược đầu lại mà thành
A.
Trung
hoa , quẩn quanh trong qua khứ ngàn nãm. Không phân tích thành “mẫu
tự”. Mà chỉ dùng âm “giông giống”, nghĩa “đâu đó” , tùy tiện, đại khái,
nhang nhác!
Chữ nôm , bị trói chặt trong chữ Hán, “thừa hưởng” tất cả nhưng thứ phức tạp, luộm thuộm của nó.
Thê
nhưng nó vẫn là di sản quý báu của cha ông, qua nó các cụ truyền tải,
lưu lại được biết bao thơ văn , tác phẩm bằng tiếng mẹ đẻ .
“Tiếng nước tôi, tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi”.
Thế
nhưng, do điều kiện lịch sử, nó không có cơ hội để phát triển, hệ thống
hóa, hợp lý hóa.. Mãi cho đến đầu thế kỷ 20 nó vẫn là một thứ chữ “tùy
tiện” và đành phải nhường bước cho “quốc ngữ”.
Chữ
Nôm tự đào thải , không phải do ai “áp đặt”, “giết” nó. Chữ “quốc ngữ”
phát triển chẳng phải do một ai “ép buộc”. Chính các nhà nho “thức thời”
và các nhà “tân học” đã cổ súy và tiếp tục phát triển nó. Chủ yếu là do
tính hợp lý của quốc ngữ.
Nhưng ai hay so sánh Việt Nam và Nhật Bản, Triều Tiên chớ nên quên rằng lịch sử hai nước này khác xa Việt Nam, khác rất lớn.
Nếu
như Việt Nam chỉ dành được độc lập từ thế kỷ thứ 10 thì Nhật Bản chưa
hề mất đọc lập , Triều Tiên tuy có lúc bị Trung Hoa lấn chiếm nhưng chưa
hề hoàn toàn bị thôn tính, nhưng vương quốc Triều Tiên như Bắc Tế, Tân
La, Cao [câu] Ly vẫn tồn tại. Nếu Việt Nam chỉ có 1 thế kỷ phát triển
trong độc lập, văn hóa bị phủ bởi Trung Hoa như bị bóng cây phủ rợp thì ở
Nhật Bản, Triều Tiên có điều kiện phát triẻn văn hóa độc lập, nếu có
ảnh hưởng Trung Hoa , thì đó là do “tự nguyện”.
Với
hai thiên niên kỷ phát triển độc lập, với những trièu đại vững bền, với
nền học thuật vững mạnh, với những học giả có chiều sâu , hai nước Nhật
Bản, Triều Tiên đã tự xây dựng hệ thóng chữ viết khá hoàn chỉnh của họ.
Vua Sejong ( Thế Tông) ở Triều Tiên , thế kỷ 15 , khi sáng chế ra
Hangul, chắc chắn không phải do ông, mà do rất nhiều học giả tinh thông
về ngữ âm. Họ phân tích âm tiếng Hàn kỹ lưỡng, tinh vi mới quy ra được
ký tự. Nhật Bản cũng thế, Hiragana là công trình của các nhà quý tộc ,
Katanaka của các thiền sư. Họ là các người có điều kiện học rộng biết
nhiều, các nhà sư sang Ấn Độ học chữ Phạn, vốn là một thú chữ “ký âm”.
Thu nhập văn hóa Trung Hoa, Ẫn Độ một cách tường tận. Trên cơ sở đó hệ
thống chữ viết phát triển, và trên cơ sở đó , văn học, triết học.. cùng
phát triển.
Việt
Nam, thiếu các điều kiện đó. Không phải do lỗi riêng ai, hay một vị vua
nào mà một hệ thống chữ viết hoàn chỉnh không được hình thành. Không
chỉ riêng Hồ Quý Ly hay vua Quang Trung mà nhiều vua chúa khác như chúa
Trịnh cũng muốn phát triển chữ Nôm. Nhưng các vị đó làm được gì khi
không có một tập thể đông đảo học giả, một nền học thuật thâm hậu? Ra
một mệnh lệnh, một chiếu chỉ chả ăn thua gì. Các nhà nho như Ngô Thời
Nhậm cũng biết thực trạng đó. Ông từng viết “Chữ nước ta khó hơn chữ
Trung Quốc” ( Ngã quốc tự giảo nan ư Trung Quốc ). Biết thế , nhưng một
học giả như Ngô Thì Nhậm cũng không làm gì khác hơn được, trong cả nền
học thuật thời đại ông, ông đành dùng chữ Hán là chủ yếu.
Ở
đầu thế kỷ 17, trong khung cảnh như thế, các nhà truyền giáo tây phương
xuất hiện, Franscisco de Pina, Alexandre de Rhodes, Christophoro
Borri.. họ đến truyền đạo trong lén lút. Địa vị họ thật nhỏ bé, mang quà
cáp biếu xén cho Chúa, năn nỉ xin được tạm trú, dùng kiến thức vượt
trội như thiên văn để lấy uy tín với nhà cầm quyền, sống trong dân, thậm
chí bỏ giầy đi đất như Christopho Borri, sống đơn giản , đạo hạnh để
truyền đạo. Họ bị bắt lên bắt xuống, tùy ý nhà cầm quyền. Giáo dân lúc
có thể hành đạo , lúc bị bách hại. AD Rhodes bị bắt nhiêu lần, khi trở
về Âu Châu , ông mang theo hài cốt của thầy giảng người Việt , An Rê Phú
Yên, bị xử tử vì không bỏ đạo. Trong hoàn cảnh bất an, bị bắt bớ, ngoài
thời gian giảng đạo, tổ chức giáo hội , các tu sĩ dòng Tên này vẫn còn
thì giờ , đam mê để , dỏng tai “Tây” lên mà nghe tiếng việt với sáu
thanh âm, suy nghĩ , phân tích ngữ âm vv. Từ đó mới ra sắc huyền hỏi ngã
nặng!
Tại
sao họ làm được nhưng gì mà ở nước Đại Việt, không nhà nho nào, không
thiền sư nào, cho dù triêu đại nào làm được? Chẳng phải chỉ do sự cần cù
của họ , mà chủ yếu do họ không bị cột vào một nền văn minh lỗi thời
lạc hậu. Họ được đào tạo chuyên nghiệp, trong nền học thuật thâm hậu,
với nền tảng khoa học về ngôn ngữ, ngữ âm. Một nền học thuật nảy sinh
trên một nền văn minh tiên tiến hơn.
Với điều kiện đó, họ đã tặng cho dân tộc ta, đất nước ta một món quà vô giá.
Với
chữ “Quốc Ngữ” không những là phương tiện để người Việt hội nhập vào
nền vãn minh hiện đại của thế giới , không những “Tây” mà cà “Đông”, mà
còn giữ gìn di sản cha ông.
Ngày nay.
Ai cũng có thể đọc “Kiều”,”Lục Vân Tiên” ai cũng có thể có một bản Kiều quốc ngữ trong nhà.
Ai
cũng có thể đọc từ “Khóa Hư Lục” thời Trần, “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”
thời Lê .. cho đến “Khâm định Việt Sử” thời Nguyễn băng “quốc ngữ”.
Ai cũng có thể đọc “Luận Ngữ” của Khổng Tử, “Nam Hoa Kinh” của Trang Tử... bằng “quốc ngữ”!
Có nhà nho nào thủa xưa , có điều kiện “thiên kinh vạn quyển” như thế?
Thế chẳng phải “QUỐC NGỮ” đang GIỮ HỒN NƯỚC hay sao?
Đoan Hùng – 12-2-2019
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=105770280907202&id=105309667619930&__tn__=K-R
1. Ngày 1/12/2019
"
Trong
phong trào toàn dân (mạng) cổ võ cho chữ Quốc ngữ, đáng tiếc là bắt đầu
có những tiếng nói coi thường và phủ định (chữ Hán và) chữ Nôm. Đó
là lối tư duy thô sơ, kiểu như để nâng Tây Sơn thì phải dìm nhà Nguyễn
hồi xưa. Một số người còn trích dẫn vài chữ Hán chữ Nôm để loè bịp dân
mạng, tưởng họ giỏi thật!!!
Nhưng
nếu bạn có chút tri thức về văn tự học, và tự biết gạt bỏ cái thành
kiến dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi, hay kiểu tư duy tao thích màu xanh vì
mày thích màu đỏ, thì bạn sẽ tự hiểu rằng: chữ abc hay chữ vuông đều có
giá trị của mình, chữ ấy có phù hợp với việc ghi chép ngôn ngữ nào đó
hay không mới là điều quan trọng. Loại hình văn tự và loại hình ngôn ngữ
không phải không liên quan gì đến nhau, nói cho dễ hiểu thì nồi tròn úp
vung tròn, chứ đem cái vung vuông vào thì không hợp nhưng vẫn úp được
nếu cái vung vuông to hơn cái nồi tròn.
Chữ
Nôm và chữ Quốc ngữ đều có công với lịch sử Việt Nam. Nếu không có chữ
Nôm thì ta đâu biết được tiếng Việt ta thế kỉ 15 thế nào (qua thơ Nôm
Nguyễn Trãi)? Nếu không có chữ Quốc ngữ thì làm sao ta có thể nhanh
chóng xoá nạn mù chữ từ trăm năm trước? Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ không có
gì mâu thuẫn nhau, chúng là anh em một nhà, ông anh gánh mỏi rồi thì
chuyển gánh cho ông em. Đừng vì khen em mà chửi anh, nghe buồn cười lắm!
Việc lựa chọn sử dụng văn tự nào, ngoài nguyên nhân ngữ văn học, thì
còn có nguyên nhân chính trị, lịch sử, văn hoá. Thổ Nhĩ Kì chủ động lựa
chọn thay đổi văn tự, dẫn đến văn hoá cũng thay đổi.
Mời
đọc bài viết của nhà ngữ học Cao Xuân Hạo, để hiểu góc nhìn của một
chuyên gia thực thụ, chứ không phải kiểu chuyên-gia-mạng cái gì cũng
chém được, trừ cái chuyên môn sâu mà anh ta được đào tạo, vì ở chỗ đó
anh ta biết mình dốt (còn tất cả những chỗ anh ta không biết thì thì lại
tưởng mình giỏi).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét