THƠ NHƯ HOA HƯỚNG DƯƠNG...
(Ấn tượng đọc Đi về phía mặt trời,
thơ Lê Cảnh Nhạc, NXB Hội Nhà văn, 2024)
BÙI VIỆT THẮNG
Người thơ hào hiệp
Theo Tử vi thì người sinh 1957 ăn vào can “đinh” đều khoáng đạt, tài
hoa, hào hiệp. Tôi cứ nghĩ, nếu Lê Cảnh Nhạc theo nghề giáo (vốn được đào
tạo bài bản ngành Sư phạm ở Liên Xô trước đây) thì sẽ trở thành một ông
giáo trường công chỉn chu, sáng láng, thành đạt. Nhưng có những ngã rẽ của
số phận bất ngờ. Từng trực tiếp với công việc phấn trắng và bảng đen nên Lê
Cảnh Nhạc trong các lĩnh vực nghề nghiệp đều gắn chặt với con người, gia
đình và xã hội nên khi chuyển hướng viết văn có vẻ tương hợp với định đề
“Văn học là nhân học”. Anh thành đạt nhờ công việc chuyên môn, nhờ vị trí
quản lý (quan chức) nhưng thành danh nhờ văn chương, chữ nghĩa.
nhờ chữ nghĩa mà dẫu rửa tay gác kiếm đóng vai “hưu trí”, thì mặc lòng vẫn
cứ lao động không ngưng nghỉ, ở đây là lao động nhà văn - một thứ lao động
cô đơn, khổ sai, lúc nào cũng như đối diện với “pháp trường trắng”. Vinh
quang và cay đắng đủ cả. Tài năng và danh phận song đôi. Nhưng lạ là, theo
cảm nhận của riêng tôi, Lê Cảnh Nhac làm gì cũng hanh thông, bất kể là trên
vị trí quan chức lúc nhỏ lúc to cũng như lúc được tự do sống vì mình như là
nhờ viết văn. Vì thế nên mới thảnh thơi, thênh thang, tha thiết tự thốt (nói to)
lên giữa trời/ giữa đời “ Ước làm một hạt phù sa/ Ước làm một tiếng chim ca
xanh trời/ Ước làm tia nắng vàng tươi/ Ước làm một giọt mưa rơi ấm chồi”
(Suy nghĩ về nghề văn). Và hơn thế, khi cao trào cảm xúc, nhà thơ như lên
đồng vung bút viết “Ta đã cháy đến tận cùng trang viết/ Thiêu đốt mình
ngun ngút tuổi hai mươi/ Quờ tay gom nắng quái cuối trời/ Dồn nồng thắm
xây cầu vồng bảy sắc” (Gửi bạn). Bình thường, tôi nghĩ, nhà thơ Lê Cảnh
Nhạc là người “tỉnh” (lý trí, trí tuệ mẫn tiệp) nhưng đã là thi nhân há chẳng
cần có men say bở “tình”?! Chẳng đến mức như say nghiêng ngả, điên rồ
kiểu Vũ Hoàng Chương nhưng cũng kẻ tám lạng người nửa cân “Cạn chén,
cạn chén/ Núi ngả nghiêng say/ Cạn chén, cạn chén/ Kim Bôi sóng sánh/ Núi
say, rừng say/ Trăng say, ta tỉnh/ Ngọc Linh em ngây ngất chuốc men tình/
Đêm Kim Bôi sông núi chung chiêng/ Ta cứ tỉnh trăng ngất ngư sắc tửu/ Sau
điệu sinh tiền em gái Mường líu ríu/ “Có tắm chung dòng suối với em
không” (Uống rượu ở Kim Bôi). Sở dĩ tôi nói người thơ Lê Cảnh Nhạc hào
hiệp là vì những cơn say đẹp nồng nã như thế này. Nếu không có thơ thì, tôi
hình dung, ông quan Lê Cảnh Nhạc sẽ cứng nhắc trong những bộ trang phục
đẹp, đắt tiền, đi đứng khoan thai bệ vệ, ăn nói nghiêm trang, hành xử mực
thước. Thơ vì thế có năng lượng đặc biệt kích hoạt cá tính con người phát
tiết, thăng hoa, hết mình. Thơ khiến con người ta chân thành, giản dị hơn
bao giờ hết. Nên thơ đồng nghĩa với cái Đẹp. Tựa như hoa hướng dương
luôn luôn hướng về mặt trời. Tập thơ mới có tựa Đi về phía mặt trời, tôi
nghĩ, là một bảo chứng chắc nịch cho ngòi bút thơ Lê Cảnh Nhạc đế độ đằm
chín và đằm thắm.
Trên từng Dặm đời ta chỉ là hạt cát - xu hướng thơ triết lý
Dặm đời - Phần 1 của tập thơ Đi về phía mặt trời - bao bọc bởi một
triết lý “Ta chỉ là hạt cát” (nhan đề bài thơ đánh dấu số 58). Một bài thơ,
theo tôi, tương thích với lứa tuổi của chủ thể ở thế hệ U70 “Tờ lịch nhắc tuổi
mới/ Giật mình bóng chiều buông/ Bao nhiêu là chìm nổi/ Bao nhiêu là tuyết
sương/ Cuộc đời như hạt cát/ Khi bay lên ngang trời/ Khi rơi vào quên lãng/
Khi lặng thầm chơi vơi/ Có ngọn gió mát lành/ Nâng niu và ve vuốt/ Có trận
gió cuồng phong/ Tàn độc và giá buốt/ Ta vẫn là hạt cát/ Lăn lóc trong dòng
đời/ Lời hoa ai gửi đến/ Lấp lánh ngày cát ơi”. Không riêng gì bài thơ này
được viện dẫn, mà suốt cả Phần 1 (gồm 58 bài), xu hướng triết lý khá nổi
trội nếu không nói là thống ngự. Nhưng thật may mắn, thơ Lê Cảnh Nhạc
không sa đà/ rơi vào “triết lý vặt” như kiểu cách những người mới bập vào
nghề viết văn/ làm thơ thường dùng làm “vũ khí hủy diệt” để trộ (răn dọa)
độc giả non gan. Khi đặt bút viết bài Ngẫm (đánh dấu số 57), nhà thơ đã bất
ngờ giải tỏa tâm lý sẵn sàng đón nhận ở độc giả một kiểu thơ theo phong
cách suy tưởng - triết lý có nguy cơ khô khan, nặng nề. Nhưng không! Nhà
thơ vẫn cứ nhẹ nhàng “Qua bao sóng gió cuộc đời/ Thời gian sàng lọc nụ
cười trao ta/ Buồn vui thành bại đi qua/Ân tình như nắng thắp nhòa sương
đêm/ Như là lá chẳng ngừng rơi/ Như là nắng vẫn chơi vơi bóng chiều/ Lịch
buông nhặt viết lời yêu/ Nối dây gửi gió cánh diều mộng mơ/ Kệ đời sông
cứ chảy đi/ Đừng vương trong đục vân vi đôi dòng/ Trời ngâu đã ướt lửa
lòng/ Còn đong đưa nhịp cầu vồng trong ta/ Ẩn ưng nắng quái chiều tà/ Nửa
như thiêu đốt nửa nhòa chân mây”. Viết như thế này là nương dựa theo tâm
thế của người từng trải và kinh lịch, tự tại và tự tin, hết sức bình tĩnh ứng xử
với mọi sự đời nước mắt soi gương, sẵn sàng biến đại sự thành trung sự,
trung sự thành tiểu sự, tiểu sự thành vô sự. Tôi biết con người đời thường và
con người thơ Lê Cảnh Nhạc là vậy. Đúng chất đàn ông Hà Tĩnh. Vừa chân quê gốc rễ, vừa thanh lịch kinh kỳ bởi kinh qua dặm đời ở đất rồng bay. Làm
công chức như Lê Cảnh Nhạc thì giữ mình rất kỹ nhưng khi đi với văn
chương, nhất là Nàng Thơ, thì cháy đến giọt cuối cùng.
Đi tìm Hồn Việt - dư ba chữ thơ
Nhưng thơ triết lý không phải là thế mạnh, sở trường của Lê Cảnh
Nhạc. Thơ anh chỉ bung nở, rực rỡ như hoa hướng dương khi “đi về phía
mặt trời”, như nhan đề của tập thơ mới của thi sỹ. Đọc Hồn Việt - Phần 2 của
tập thơ gồm 65 bài (đánh số 59-123) - tự nhiên tôi liên hệ với câu thơ cuối
trong thi phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính của thi nhân Phạm tiến
Duật “Cứ đi, cứ đi trời xanh thêm”. Với nhà thơ Lê Cảnh Nhạc, tôi muốn láy
lại “Cứ viết, cứ viết trời xanh thêm” (?!). Ở Phần 2 - Hồn Việt - tôi thấy rõ
nhà thơ Lê Cảnh Nhạc đã thực hành tối ưu công thức “đi - đọc - viết” được
coi như là yêu cầu cần và đủ với người sáng tác văn chương. Đành rằng nhà
thơ cũng không thoát khỏi tinh thần, hay thói quen “tự ngã trung tâm” (lấy
cái tôi ra mà trình diện với thiên hạ). Nhưng nhà thơ đích thực và chân chính
không thể chỉ có ru rú trong cái “tháp ngà” của mình. Đi để trải lòng, đi để
mở rộng tâm hồn, đi trong ý nghĩa cao nhất là “đi xuyên văn hóa”, không
đơn thuần là sự thiên di về không gian địa lý, đôi khi cho thỏa chí tang bồng,
thậm chí theo triết lý của chủ nghĩa xê dịch. Đi và viết về những Đảo Sơn
ca, Đảo Sinh Tồn, Những chú chó Trường sa, Hướng về Gạc Ma, Miền
Trung, Huyền thoại Hồng Lam, Đôi bờ sông Thương, Miền xòe chân mây,
Đất thép, Hồn Tây Bắc, Bản anh hùng ca Bến Thủy, Linh khí Thủy đường,
Về Thái Nguyên, Với Bạc Liêu, Đất Mũi, Vỗ sóng Ngàn Trươi, Bến Giang
Đình, Ân tình Quỳ Hợp, Qua miền dân ca, Hương Kê tình đất tình người,
Mơ về Hà Nội, Bái Đính huyền linh, Bình Sơn tháp cổ, Bồng lai Tam Chúc,
Người đẹp đồi chè, Miền xoan ghẹo,... Phần thơ này, theo tôi, rất mở, như
tâm can thi sỹ dường như đã phải lòng đất nước đẹp đẽ muôn phần nhờ
những chuyến đi xuyên văn hóa, nhờ “hồn tôi đôi cánh” theo cách diễn đạt
của thi sỹ Xuân Diệu, nên đâu phải chỉ có “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh/
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ” trong ca dao cổ mà người xứ Nghệ
đôi khi nghĩ là duy nhất không đâu có?! Nói Lê Cảnh Nhạc là người thơ hào
hiệp là có lý có tình vì thơ anh (đặc biệt ở phần 2 - Hồn Việt) là một bảo
chứng độc đáo. Nếu đi xuyên văn hóa, nếu thi sỹ phải lòng đất nước thì cái
Đẹp luôn bất ngờ xuất hiện “Con gái Tuyên Quang môi mềm men lá/ Rượu
cần lơi lả vít cong hương tình/ Đất nở đầy hoa, sao trời lúng liếng/ Vòng xòe
phố núi váy bồng Thác Mơ/ Người đẹp đồi chè ngắt đầy đọt nắng/ Làn da măng bóc ngực trăng phập phồng/ Người đẹp nương ngô phấn thơm lối
rừng/ Mắt câu, chân nai nụ cười mây trắng/ Mận lên Hồng Thái, gái về
Thượng Lâm/ Sắc núi hương rừng đầu nguồn sông nước/ Một thời mỹ nhân
nghiêng thành nhà Mạc/ Chuốc say lâm khách chênh chao đến giờ/ Điệu xòe
Mường So chao nghiêng bóng núi/ Dư âm hát cọi vọng rừng Na Hang/ Dẻo
như nếp nương lời chào hội ngộ/ Rượu ngô men lá lịm hồn sơn khê” (Người
đẹp đồi chè). Đọc bài thơ hay này tôi nghĩ nhà thơ Lê Cảnh Nhạc đã thoát
khỏi “chủ nghĩa bản vị” vốn như một sự bảo thủ của những người thiếu thức
thời luôn khép kín, đóng cửa, hẹp hòi như thể không biết đến “ngoài trời còn
có trời”. Một người đã biết yêu “Đôi bờ ví giặm” thì đồng thời không thể
không trân quý và náo nức bởi “Đôi bờ sông Thương” hay chỉ một lần qua
“Miền xoan ghẹo” (nhan đề những bài thơ da diết tình đất, tình người, gieo
mầm những ký ưc lương thiện).
Vĩ thanh
Đi về phía mặt trời chưa phải là một đơn vị nghệ thuật thơ ca có tính
hoàn chỉnh, toàn bích. Tất nhiên. Trước hết tập thơ chưa cân đối giữa hai phần
thơ Dặm đời và Hồn Việt (tuy về số lượng bài thơ với tỷ lệ 58/63). Ở đây
chúng tôi không tính đến cơ cấu về số lượng, dẫu cho đôi khi có những “con
số biết nói” (!?). Trong trường hợp này cấu trúc tập thơ hẳn dựa trên ý định
của chủ thể - nhà thơ - đi từ trải nghiệm sống qua những Dặm đời đề đến một
“hồn tôi đôi cánh” khi chạm đến Hồn việt. Xét đến cùng đó là một ý đồ về cấu
trúc mở rộng giao diện thơ. Nhưng giữa Dặm đời và Hồn Việt, chúng tôi hình
dung, dường như có một “mối hàn” chưa đủ độ tinh xảo nên vẫn hiện lên một
độ chênh tuy khó nhận ra nhưng không phải không thể nhận ra nếu độc giả
tinh ý, tinh tường. Đó là thiếu chất keo của nhựa sống, chất sống, có thể chưa
đòi hỏi đến độ phải là những gì “ròng ròng sự sống” được kết tinh, kết dính.
Có tình trạng trên là bởi độ chênh giữa triết lý và chất sống. Cũng chính vì thế
ở phần 1 - Dặm đời - có thể nhặt ra đôi ba bài thơ, nếu nhà thơ kỹ càng,
nghiêm khắc và quả quyết hơn thì có thể “tạm hoãn xuất cảnh” như Quyền
lực, Tin đồn, Chợ đời, Nhân thế, Còn và mất. Bớt đi tập thơ vẫn cứ bề thế và
hấp dẫn, để lại tập thơ xem chừng cũng không lấy được thêm điểm. Tôi nhận
xét như thế song le, nếu xét toàn cục, không giảm chút nào nhiệt tình khi đọc
và viết lời bình về tập thơ mới của nhà thơ đồng hương Hà Tĩnh. Về căn bản,
tôi nhìn thấy được chân tủy của thơ Lê Cảnh Nhạc, trong tập thơ Đi về phía
mặt trời, là chân thành, chân thực, chân phương và hợp với quy luật “Cái Đẹp
là sự giản dị”./.
Hà Nội - Hà Tĩnh, tháng 10 -2024
B.V.T
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét