Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2025

ANH CHI giới thiệu

 

ANH CHI giới thiệu 

anh_chi_1

Từ Lộ, nhà thơ thiền đặc sắc thời Lý
Từ Lộ có pháp danh là Từ Đạo Hạnh. Ông là thiền sư, cũng là một tác gia văn
chương nổi tiếng thời Lý. Chưa thấy tài liệu nào ghi về ngày sinh Từ Lộ, qua các thư
tịch xưa ta biết, ông sống vào đời Lý Nhân Tông (1072 – 1128), tạ thế năm 1117. Ông
sinh trưởng tại hương Yên Lãng, tục gọi làng Láng, một làng rất cổ ven mạn đông dòng
sông Tô Lịch. Thời Lê sơ, Yên Lãng thuộc huyện Vĩnh Thuận, phủ Phụng Thiên, kinh
thànhThăng Long, ngày nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Sách Việt điện u linh của Lý
Tế Xuyên (thời Trần) cho biết, đời Lý Thánh Tông (1054 – 1072) ở hương Yên Lãng
có người con gái là Tằng Thị Loan lấy đạo sĩ Từ Vinh, sinh ra Từ Đạo Hạnh. Ngôi
chùa Láng của hương Yên Lãng đẹp cổ kính giữa vườn rừng thâm nghiêm, có cây
thông gần ngàn năm tuổi, từ xưa đã nổi tiếng là đệ nhất tùng lâm ở cổ đô Thăng Long.
Chùa được lập dựng từ đời Lý Thần Tông (1128 – 1138), trên nền cũ nhà ông, bà Từ
Vinh, Tằng Thị Loan. Đặc biệt, trong chùa có pho tượng Từ Đạo Hạnh, không tạc bằng
đá, mà đan bằng mây, bên ngoài bó sơn ta, đẹp hiếm thấy trong các đền, chùa khắp xứ
Bắc.


Truyền thuyết xuất thân và sự thực về gia thế họ Từ ở Yên Lãng nhiều khi được
truyền tụng trong đời sống rất lạ lùng. Nhất là những chuyện trong dân gian về Tăng
quan đô án Từ Vinh bị pháp sư Đại Điên giết chết, rồi con trai ông là thiền sư Từ Đạo
Hạnh tu luyện đạo pháp trả thù cho cha. Điều đó không lấy làm lạ, vì thời nhà Lý người
ta rất chuộng đạo Phật. Các vua Lý đều chăm việc dựng chùa, đúc chuông, tô tượng. Có
những sư, tăng được cử làm Quốc sư, có quyền ra vào triều đường, tham dự các việc
triều chính. Vương triều Lý còn cho mở khoa thi Bạch liên hoa để kén chọn những
tăng, sư hay các tín đồ có đạo học cao, để bổ dụng. Từ Vinh là người đỗ khoa thi ấy và
được bổ chức Tăng quan đô án ở Kinh thành. Sau, ông lấy bà Tằng Thị Loan ở làng
Láng, về sống tại đó và sinh được Từ Lộ. Tư chất thông minh, khi còn bé Từ Lộ đã có
chí khác thường, ban ngày thì cùng bạn lứa chơi các trò đá cầu, múa kiếm, tối đến
thường đóng chặt cửa phòng, chong đèn nghiên cứu sách vở suốt đêm. Từ Lộ có bản
tính hào hiệp, nghĩ sâu các lẽ, những hành sự và lời nói không mấy ai đoán trước được.
Loại trừ lớp áo truyền thuyết về việc Từ Vinh hay dùng tà thuật làm các việc
không hay, bị pháp sư Đại Điên dùng phép thuật giết, rồi Từ Lộ tu luyện đắc đạo về
báo thù cho cha..., ta thấy thực đời có một Từ Lộ với pháp danh Từ Đạo Hạnh tu tại
chùa Thiên Phúc, trên núi Phật Tích (ở Quốc Oai, Hà Nội ngày nay). Loại trừ những
truyền tụng về phép tu của Từ Đạo Hạnh gần với phái Mật Tông, tinh thông đạo pháp
để rửa thù báo oán, rồi hóa Thánh..., ta biết ông là thiền sư thuộc thế hệ thứ mười hai
của dòng thiền Nam Phương. Học giả Phan Huy Chú có viết trong sách Lịch triều hiến
chương loại chí: ‘‘Chùa Phật Tích ở xã Thụy Khuê, huyện Yên Sơn, có tên nữa là Sài
Sơn, lại gọi là Cổ Sài, cảnh núi rất đẹp. Chân núi có hồ, trên núi có hang sâu, là chỗ
Từ Đạo Hạnh trút xác ở đây. Tại vách đá còn có dấu vết đầu và gót chân. Trong núi có
viện Bồ Đà, am Hương Hải đều là Từ Đạo Hạnh làm ra. Nay là chùa Phật Tích’’. Để
lại một dấu ấn như vậy tại một ngôi chùa nơi vùng núi Sài Sơn, chứng tỏ Từ Đạo Hạnh
đã phải chuyên sâu việc thiền đạo đến ngần nào. Và, Từ Lộ cũng là một văn nhân danh

22
tiếng của thời đại ông, còn để lại bốn bài thơ, ‘‘đều là những tác phẩm giãi bày triết lý
đạo Thiền’’ (Từ điển văn học Việt Nam, tập II, NXB Khoa học xã hội – 1984). Đó là
các bài Vấn Kiều Trí Huyền (Hỏi Kiều Trí Huyền), Thất châu (Mất hạt châu), Hữu
không (Có và không) và Thị tịch cáo đại chúng (Sắp mất bảo mọi người).
Chúng tôi xin lưu ý với bạn đọc và giới quan tâm rằng, trên tiến trình văn học
Việt Nam ta, văn học thời Lý là giai đoạn rất đặc biệt, bởi thời kỳ đó xuất hiện rất nhiều
các văn nhân là những nhà sư và nhà chính trị. Vậy nên, những tác phẩm văn chương
thời Lý còn lại với hậu thế cũng phản ánh khá rõ tâm tư và ý thức xã hội đương thời.
Xin đơn cử một đặc điểm mà chúng tôi mạnh dạn cho là duy nhất có ở thời Lý: Về thơ,
chủ yếu là thơ thiền (như thơ của Lã Định Hương, Thiền Lão, Mãn Giác...); còn về văn,
chủ yếu ghi lại những việc lớn trong đời sống xã hội, của đất nước hay của một vùng
quê (như văn của Lý Thái Tổ, Lý Thường Kiệt, Lý Nhân Tông...). Thơ Từ Lộ cũng là
thơ thiền của thời Lý. Bài Hỏi Kiều Trí Huyền, có lẽ ông viết khi chưa đắc đạo, nên
những câu thơ bộc bạch nỗi băn khoăn, đau khổ cùng lòng mong mỏi của một người đi
kiếm tìm chân Lý (phiên âm):

Cửu hỗn phàm trần vị thức câm (kim),
Bất tri hà xứ thị chân tâm.
Nguyện thùy chỉ đích khai phương tiện,
Liễu kiến như như đoạn khổ tầm
Dịch nghĩa :
Lăn lóc giữa cõi trần mà chưa nhận rõ vàng (thau),
Chẳng biết chốn nào là chân tâm
Mong người rủ lòng chỉ cho biết cách
Thấy rõ chân tâm đỡ khổ công tìm.
(Theo sách Thơ văn đời Lý, NXB Văn hóa thông tin – 1998)
Qua bài thơ, ta biết Từ Lộ đã phải nhiều trăn trở, day dứt ngay ‘‘giữa cõi trần’’
để tìm tới chân lý trong cõi người. Và đến bài Mất hạt châu, thì Từ Lộ đã nhận biết
được chân lý. Nhưng đồng thời, ông lại thấy buồn cho người đời không mấy ai đạt tới
cái chân lý ở ngay giữa cõi đời này (phiên âm):
Nhật nguyệt xuất nham đầu,
Nhân nhân tận thất châu.
Phú nhân hữu câu tử,
Bộ hành bất kỵ câu.
Dịch nghĩa:
Mặt trời mặt trăng kế nhau mọc nơi đầu núi
Cõi đời này người người đều đánh mất ngọc của mình,
Như anh nhà giầu có con ngựa quý
Lại không cưỡi, mà chỉ đi chân không.

(Theo sách đã dẫn ở trên)

Có nhà nghiên cứu đã đưa ra những con số thống kê rằng, từ các học giả xưa như
Lê Quý Đôn (1726 – 1784), tiếp nữa là rất nhiều nhà sưu tầm nghiên cứu các đời sau,
cho đến nay mới tìm thấy được 126 bài thơ hoặc văn của các tác gia thời Lý. Nếu tính
cả triều Lý dài 216 năm, đem lượng bài văn, thơ tìm được chia đều cho thời gian, thì

23
khoảng 2 năm có được 1 bài! Như vậy mới thấy, Từ Lộ để lại 4 bài thơ đến hôm nay là
rất quý hiếm. Hơn nữa, bài Có và không là một tác phẩm văn chương thật hay trong
kho tàng thơ ca dân tộc ta (phiên âm):
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không.
Hữu, không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không.
Từ Lộ viết Có và không từ chín trăm năm trước, là thơ thiền, nhưng rất trữ tình,
hình tượng lớn lao, mỹ cảm sâu xa lạ thường. Đã không ít người dịch Có và không ra
quốc văn, ở đây chúng tôi giới thiệu bản dịch bài thơ ra thể lục bát tương truyền của
thiền sư Huyền Quang (1254 – 1334), một nhà thơ danh tiếng thời Trần:

Có thì có tự mảy may,
Không thì cả thế gian này cũng không
Vầng trăng vằng vặc in sông,
Chắc gì có có, không không mơ màng.

(Theo sách đã dẫn ở trên)

Trong dân gian vẫn ghi nhận truyền thuyết, khi trút bỏ xác trần, Từ Lộ đầu thai
và kiếp sau trở thành vua Lý Thần Tông. Có lẽ vì thế mà ở chùa Láng thờ cả Từ Đạo
Hạnh và Lý Thần Tông, là hai kiếp sống tại thế của Từ Lộ! Lại có chuyện lưu hành
trong dân gian vùng Sài Sơn, thiền sư Từ Đạo Hạnh do có những hiểu biết uyên bác về
nho, y, lý, số nên thường làm thuốc trị bệnh cứu người. Ồng vốn thích múa, hát, còn
sáng tác ra lối hát nói (chèo) cùng nghệ rối nước, rồi dạy dân hát và diễn trò múa rối,
nên dân chúng gọi ông là “thầy”. Bởi thế, ngôi chùa cùng ngọn núi mà Từ Lộ trụ trì,
tĩnh tọa cũng có tên là chùa Thầy, núi Thầy. Từ Lộ sống giữa cuộc đời, giữa những con
người trong nhân gian, đó là lẽ đời thực giản dị. Từ Lộ đã lăn lóc giữa trần gian, như
ông viết trong thơ, đó là trường đời thường tình của một con người với nhiều buồn vui,
sướng khổ. Và cuối cùng, khi tới cõi, ông cũng có bài thơ Sắp mất bảo mọi người
(phiên âm):

Thu lai bất báo nhạn lai quy.
Lãnh tiếu nhân gian động phát bi
Vị báo môn nhân lưu luyến trước
Cổ sư kỷ độ tác kim si (sư)
Dịch nghĩa:
Mùa thu về không báo chim nhạn cùng về,
Đáng cười người cứ nảy sinh buồn thương (trước cái chết).
Khuyên các môn đồ chớ vì ta mà luyến tiếc
Thầy xưa đã bao lần hoá thân thành thầy nay.
(Theo sách đã dẫn ở trên)

Bài thơ Sắp chết bảo mọi người là một sự thực cuộc đời Từ Lộ, đã được ông viết
thành tác phẩm văn chương. Thơ của một người có trí tuệ mẫn tiệp sắp từ giã mọi
người, ngoái nhìn cõi thế, nên thơ ấy điềm nhiên, bình thản và cũng chất chứa những
giá trị nhân bản sâu sắc. Chính bởi vậy, ngót ngàn năm qua, thơ thiền của Từ Lộ vẫn
sống trong đời sống tinh thần người Việt Nam ta!

tay-bac7


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét