Thứ Năm, 21 tháng 8, 2025

TIỂU LUẬN của LÊ ANH PHONG

 

TIỂU LUẬN của LÊ ANH PHONG 

anh_anh_phong

TÁC GIẢ LÊ ANH PHONG


HÀNH TRÌNH TRONG LẶNG LẼ

Đọc Văn của tác giả Trịnh Văn Túc )

     Bước sang tuổi 75, nhà văn Trịnh Văn Túc đã có 11 đầu sách: 1 tập thơ, 10 tập văn xuôi, trong đó có 4 tiểu thuyết. Anh còn 7 tập bản thảo chưa in. Một sức viết và lòng đam mê văn chương thật đáng quý và trân trọng.

     Năm 1975, đất nước thống nhất, anh bắt đầu sáng tác. Vốn là công nhân xây dựng, một thợ nề, sau đó anh chuyển sang làm bảo vệ cho trường học. Từ năm 1975 đến 1988, sau ban ngày lao động vất vả, đêm về trên công trường, anh buông màn để viết. Viết rồi xóa, xóa và viết trong lặng lẽ cô đơn. Những trang văn đầu tiên ra đời như thế, ra đời ở tuổi 26. “Kỷ niệm về một con vật” là truyện ngắn đầu tiên được đăng báo, trên “Tản Viên Sơn”, tạp chí của văn học nghệ thuật Hà Tây, năm 1989.

     Có thể nói, 13 năm chặng đầu của đời cầm bút (1975 – 1988) lại là giai đoạn gian khó, thời cuộc nhiều biến động, đầy thử thách, trước khi đất nước bước vào đổi mới, trong đó có văn chương. Lòng người, tâm thế con người, tâm thế của chữ nghĩa không tránh khỏi sự chao đảo, bất an bởi cái “thời xa vắng”. Đọc “Chồi mới”, tập truyện ngắn đầu tiên xuất bản năm 1999, bạn đọc nhận ra nhiều nỗi niềm, nhiều trăn trở của những năm tháng ấy. “Tớ rất nặng lòng với quá khứ. Bây giờ đó là một nhược điểm. Biết vậy mà chẳng thể nào khắc phục được”, đó là tâm sự của một nhân vật thời đó trong truyện ngắn Trịnh Văn Túc.

 Bất giác tôi giật mình, hình như chuyện ấy vẫn còn đâu đây trong những ngày ta đang sống.

     “Kỷ niệm về một con vật” là tác phẩm tôi thích nhất trong tập truyện ngắn này. Câu chuyện cảm động về một con chó và chủ nhân của nó, một người làm bảo vệ cho trụ sở ủy ban xã. Đi đâu nó cũng đi theo, như bóng với hình. Chính vì thế, ông đứng trước tình huống: Muốn ở lại làm thì phải bán hoặc giết thịt con chó, nếu không, ông bị sa thải. Sau 7 ngày cho đi, từ một nơi rất xa, con chó ấy đã tìm về với chủ. Ông đã chọn phương án nghỉ việc để về sống với con vật nghĩa tình. Đọc truyện này, tôi chợt nhớ tới “con Vàng” trong truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao. Và hình dung vì sao lúc ấy, năm 1989, “Tản Viên Sơn” lại đăng truyện ngắn này.

     Không bạo liệt, dữ dằn, không gây hấn, văn của anh dung dị, chất phác, thiện căn như chính con người anh. Chữ nghĩa hướng đến nhiều vấn đề của đời sống, của con người trong thời mở cửa, đổi mới và cả những gì đã và đang diễn ra. Hiện thực ấy được phản ánh trong tình thế giằng co giữa ánh sáng và bóng tối, trong lấn bấn, bấn loạn, lỡ làng, trong những u mê giữa thần thánh và ma quỷ, những ứng nhân xử thế, tình yêu, tình làng nghĩa xóm, bằng hữu thời chộn rộn, những cảnh ngộ trớ trêu, những hư danh, háo danh, ảo tưởng…Hầu hết các nhân vật của anh đều xuất phát từ nguyên mẫu. Không ít tác phẩm được khởi nguồn từ những chuyện có thật. Vì thế, phi hư cấu trở thành đặc điểm cơ bản. Nông thôn là sở trường của trang viết. Bên cạnh đó, do có khoảng thời gian khá dài làm bảo vệ cho trường học, nên học đường cũng là thế mạnh của nhà văn.

     Về đề tài nông thôn, ngòi bút Trịnh Văn Túc đi sâu vào quá trình đô thị hóa, sự biến động của làng quê, sự đổi thay của người nông dân và số phận của họ trong nền kinh tế thị trường. Vui có, buồn có. Và có cả những điều không biết là nên vui hay nên buồn… Là người sống giữa văn hóa làng, gắn bó với cội nguồn, “đứng về phe nước mắt”, nên bàn viết luôn hướng ra ô cửa của đời sống thế tục, phong nhiêu, thấm thía mồ hôi, lắng nghe tiếng nói từ phía cần lao, từ phía những thân phận “thấp cổ bé họng”. Vừa là chứng nhân, vừa là người trong cuộc, nhà văn như là người kể chuyện đời, người kể chuyện làng, có mình trong đó.

     Tuy không phải là người lính, nhưng được nghe kể lại từ một cựu chiến binh, nhà văn đã viết tiểu thuyết “Đi qua cuộc chiến tranh”. Tác phẩm làm sống lại câu chuyện người cựu binh trên hành trình vận động đóng góp để dựng lại ngôi đình ở làng quê, đã gặp biết bao chuyện đời, chuyện người… Trở về miền đất của một thời bom đạn, sau 40 năm, ông gặp lại đứa con nuôi cùng tên trong cảnh ngộ đau xót. Bây giờ chỉ còn là nấm mộ, vì đã vô tình cuốc phải mìn từ thời chiến. Ông gặp lại người đồng đội một thời sống chết có nhau, nhưng lại trong một tình cảnh buồn nhiều hơn vui. Chỉ vì không còn giấy tờ hồ sơ, người lính năm xưa ấy trắng tay khi trở về sống giữa quê hương. Muốn làm một nhân chứng để giúp bạn mình được hưởng chế độ, góp phần cải thiện đời sống, nhưng không may bất ngờ tai nạn giao thông ập đến, cướp đi người bạn đồng ngũ, chỉ vì một tay lái xe say rượu ngược chiều đâm phải. Đau xót, cái chết giữa thời bình. Ông gặp lại người phụ nữ ngày xưa đã cứu sống mình, nay là một nhà sư chùa Linh Sơn. Thời chiến, bà là vợ của một sĩ quan Việt Nam cộng hòa. Khi gặp lại ông, bà mới biết, chính cái người lính mà mình đã băng bó vết thương và bí mật đưa về nhà ẩn náu, lại là người chỉ huy trận đánh khiến chồng mình bị chết. Tình thế của chiến tranh, tình thế của văn chương. “Sư thầy nức nở tự kết tội mình: - Ông hãy đi đi, hãy đi xa nơi này, để cho những ký ức đau khổ của tôi ngủ im trong quên lãng!”.  “Chúng ta ra khỏi chiến tranh, nhưng chiến tranh chưa ra khỏi chúng ta”.

     Có thể nói, “Phận lá phải xanh” là tác phẩm bộc lộ khá rõ sở trường, tạng văn của nhà văn Trịnh Văn Túc. Đó là câu chuyện về nông thôn, nông dân trong quá trình thay đổi cơ chế. Từ mô hình hợp tác xã, tất cả là của chung, quan liêu nghèo đói, “đánh trống ghi tên”, “cha chung không ai khóc”, chuyển sang một nền sản xuất theo quy luật thị trường. Trong không gian, thời gian ấy, cái mới ra đời không dễ. Nó gặp biết bao trở ngại. Bảo thủ, cứng nhắc, mưu mô, “chụp mũ”, đố kỵ, hẹp hòi, ấu trĩ, phép vua thua lệ làng… Những hệ quả từ một cơ chế lỗi thời, duy ý chí tồn tại quá lâu, đã để lại, hằn lên một lối sống không tự chủ, dựa dẫm và dối trá. Vẫn còn những trạng thái “cảm xúc cách mạng trào dâng” trỗi dậy lấn át cả tư duy mới, cách làm mới. Đó là câu chuyện của “đất và người” ở một miền quê, nhưng đó cũng là bối cảnh chung của một thời nhiều ẩn ức. Hãy nghe lời của nhân vật Hươu nói với vợ trước khi dời làng ra đi, để đến miền đất mới, một quyết định không dễ trước cổng làng, trước nơi chôn nhau cắt rốn: “ - Chúng ta phải ra đi, phải đến một nơi đất đai là của mình, mình toàn quyền trồng trọt chăn nuôi, không bị ai cấm đoán. Tôi đã đến nơi đó rồi. Đất đai ở đấy màu mỡ, nhân hậu như mẹ như cha mình, chỉ cần chắt chiu chịu khó là no đủ”. Tôi đọc lời thoại này trước khi trời sáng… Trong chập chờn sáng tối, vẫn le lói, vẫn ánh lên hy vọng bởi lòng tự trọng, bởi ý chí vượt lên thoát nghèo, bởi thiên lương đánh thức.

     Về cơ bản, thi pháp văn xuôi của nhà văn Trịnh Văn Túc ảnh hưởng nhiều từ lối viết và điểm nhìn truyền thống. Thường kết thúc có hậu, có xu hướng nghiêng về tiểu thuyết tâm lý. Đôi khi vẫn còn miên man trong tả và kể. Một vài truyện ngắn nhưng chưa ngắn. Tác giả có chủ định để nhân vật tự nói lên. Nhân vật đa nhân cách có xuất hiện, nhưng chưa trở thành điểm nhấn về một loại hình nhân vật của tiểu thuyết hiện đại, đương đại. Khi viết về làng quê, ngôn ngữ đậm đà phong vị thôn hương dân dã. Nghệ thuật đồng hiện được sử dụng khá hiệu quả trong tiểu thuyết. Ký ức và hiện tại xen kẽ, đổi vai cho nhau, khiến thời gian và không gian câu chuyện trở nên đa dạng. Điểm nhìn luôn thay đổi, mang lại nhiều suy tưởng.

     Đặc biệt giấc mơ, chi tiết và tình huống được sử dụng khá đắc địa. Trong tiểu thuyết “Đi qua chiến tranh”, chi tiết người cựu binh giải phóng thắp nén nhang cho ngôi mộ viên sĩ quan Việt Nam cộng hòa, chồng của cô gái năm xưa đã cứu mình thật nhân bản. Nén nhang như cắm vào khoảng trống của một thời tao loạn. Còn đây là đoạn đối thoại của những người lính, đồng đội của nhau, nhưng hiện tại là người sống và người đã hy sinh. Cuộc đối thoại giữa âm và dương, nói lên được những điều không dễ nói. Một tình huống chỉ có trong mộng mị:

“ Ông Dũng bị cuốn vào giấc ngủ nặng nề đầy âm khí. Đây là cánh rừng mà ông đã đi trong lần tìm mộ đồng đội:

-Có phải cậu Tưởng đấy không?

-Chính là tôi chứ còn ai nữa.

-Sao cậu không già đi nhỉ?

-Với cuộc chiến tranh thì không có tuổi, chúng tớ sẽ còn trẻ mãi.

-Chết trẻ thì thiêng lắm có phải không?

-Các ông đi theo tôi, con đường vạn dặm càng bước vào càng có nhiều điều thấm thía. Tưởng đưa bàn tay đầy âm khí nắm chặt tay ông lôi về phía trước…

-Tha cho tôi đi!

-Ông chưa thể ra khỏi cuộc chiến tranh này. Ngày xưa, tôi là lính của ông. Nhưng ông còn vương nợ với anh em chúng tôi đấy!”.

     Trong truyện dài “Phận lá phải xanh”, có chi tiết nhân vật Hươu lẩn vào chùa Rét trộm tượng Đức Ông mang đi bán, sau đó mua được đàn vịt lùa về. Phải là nhà văn tường tận căn tính nông dân mới có được chi tiết này.

     “Phận lá phải xanh”, tôi quý trọng tinh thần ấy, tâm thế ấy và hành trình nửa thế kỷ cầm bút của một người văn lặng lẽ dấn thân và khiêm nhường. Chia tay anh, chia tay nhà văn Trịnh Văn Túc, con sông Bùi, dòng sông quê dường như đang chảy chậm…

                                                                                Tháng 4/ 2024

tay-bac7

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét