Mấy cảm nhận về tập “ Hồn thiền trong
thơ Lý- Trần” của Vũ Bình Lục
Vũ Nho
1. Vài năm gần đây, nhà giáo, nhà thơ Vũ Bình Lục
chuyên chú vào việc bình thơ. Chỉ từ năm 2010 đến thời điểm này, anh đã cho ra
mắt sáu tập giai phẩm và lời bình. Đều
là sách bìa cứng và dày 4, 5 trăm trang. Tập thứ sáu không mang tên như các tập
trước mà có tên “Hồn thiền trong thơ Lý- Trần” kèm phụ đề “Tinh tuyển, dịch thơ
và bình giải” dày đến 704 trang khổ 14,5 x 20,5.
Bỏ công sức, thời gian và cả tiền bạc nữa để tìm hiểu
thơ của tiền nhân và viết cuốn sách độc đáo như thế, quả là một việc đáng ghi
nhận và biểu dương, khích lệ. Bởi vì càng ngày, những người biết chữ Hán càng
ít, những người có đủ say mê và hiểu biết thơ cổ càng thưa vắng; tuổi trẻ bây giờ học tiếng
Anh để giao tiếp và hội nhập, ít có nhu cầu tiếp xúc với thơ, nhất là thơ cổ
lại viết bằng chữ Hán với những điển tích, điển cố có phần xa lạ. Phải có đủ sự
kiên tâm, sự say mê và cả đủ sự dũng cảm mới dám chọn và làm công việc này.
2. Trong cuốn sách nhiều tâm huyết của tác giả, như
phụ đề có ghi : Tinh tuyển, dịch thơ và bình giải, chúng tôi đánh giá cao công
sức của tác giả ở hai phần sau.
Nói về việc tinh tuyển, không phải là Vũ Bình Lục
không có đóng góp. Thành tựu nghiên cứu
về thơ Lí -Trần của nước ta có một bước phát triển mới. Nếu so với các bài thơ
thời Lí- Trần được truyển trong “ Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ X- thế kỉ XVII” nhà xuất
bản Văn hóa, Hà Nội, 1962 thì quả thật số bài thơ được tuyển trong sách của Vũ
Bình Lục đã vượt khá xa. Tuy nhiên, tác giả cũng đã thừa hưởng thành quả của
các cuốn sách “Thơ Văn Lí –Trần”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978 và “ Tuyển
dịch thơ đời Lý- Trần” của Đinh Văn Chấp, NXB Lao Động, 2010. Mặc dù trong quá trình tuyển chọn, tác giả đã
đối chiếu, bổ khuyết, điều chỉnh một số chú thích sai hoặc không phù hợp. Nhưng
nhìn chung, cái công ở đây là có, nhưng không nhiều.
Phần đóng góp quan trọng của Vũ Bình Lục chính là phần
dịch thơ và bình giải.
Về dịch thơ, tác giả đã nghiền ngẫm kĩ nguyên tác,
thêm nữa, với vốn liếng khá dày của một người làm thơ đã có 8 tập thơ in, đã
từng được giải cao trong cuộc thi thơ của Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, Vũ Bình
Lục đã cung cấp nhiều bản dịch khá hay về thơ của tiền nhân. Có một số bài chưa
có bản dịch thơ, thì bản dịch của Vũ Bình Lục lại càng quý. Những bài đã được
tiền nhân dịch, Vũ Bình Lục cung cấp một cách cảm khác, nhất là cách diễn đạt
khác, cho người đọc thấy vẻ lung linh của bài thơ nguyên tác. Thơ Lý-Trần có
nhiều bài có vị thiền, nhiều bài “kệ” ý tứ thâm sâu phải có hiểu biết nhất định
về đạo Phật mới có thể hiểu được. Rồi từ hiểu mà chuyển thành thơ để người khác
cũng hiểu và rung động với người xưa. Việc ấy không phải ai muốn là có thể làm
được. Mặt khác, thơ của người xưa cách chúng ta gần một ngàn năm với những điển
tích đòi hỏi phải tra cứu công phu mới tránh được hiểu “sai một li đi một dặm”.
Như tác giả có bộc bạch : chỉ riêng việc hiểu hai sự vật “áo chiến bào” và “cờ
Hán” trong thơ Nguyễn Trung Ngạn, phải mất cả một ngày để săm soi tài liệu. Bên
cạnh đó chắc chắn không tránh khỏi khó khăn là rào cản ngôn ngữ. Thơ viết bằng
chữ Hán. Trình độ chữ Hán của tác giả chỉ ở mức của người tự học. Dù có thông
minh và cần cù đến mấy, chắc cũng khó mà đủ để hiểu những chữ nghĩa sâu xa của
các nhà thơ vốn là đại trí thức hoặc đại khoa của hai triều đại. ( Chúng tôi sẽ
chỉ ra những bất cập này trong phần sau).
Nhìn một cách tổng thể, những bản dịch thơ của Vũ Bình
Lục về cơ bản là thành công. Nhiều bài thơ chữ Hán, sau khi dịch nghĩa vẫn có
cảm giác khó hiểu, nhưng Vũ Bình Lục đã chuyển sang bản dịch thơ một cách tinh
tế, dễ hiểu và dễ cảm. Một số bản dịch đạt chất lượng cao theo tiêu chuẩn tín,
đạt, nhã.
Phần đóng góp nhiều nhất theo cách đánh giá của chúng tôi là phần bình giải của tác giả tập
sách.
Nếu ở các tập giai phẩm với lời bình trước của Vũ Bình
Lục, phần lời bình là phần quan trọng nhất, viết tung tẩy, phóng khoáng, thì ở
tập này, phần bình được viết thận trọng hơn, chắc chắn hơn và tất nhiên có vẻ
“khô khan” hơn. Cũng đúng thôi, vì ở đây bình cho đúng, cho trúng cũng đã là
một thành công lớn rồi. Với thơ cổ thì giải ( chúng tôi hiểu gồm chú giải,
giải thích) là một phần rất quan trọng. Chú giải đúng, giải thích đúng điển cố,
từ ngữ, hình ảnh là đã góp phần quan trọng vào việc cảm và hiểu, thưởng thức
bài thơ. Việc giải đúng sẽ làm cho lời bình chính xác, thỏa đáng chứ không rơi
vào bình tán chủ quan.
Xin dẫn ra vài ví dụ mà chúng tôi tâm đắc với người làm sách.
- Bàn lại với
các cụ Đào Phương Bình và Nam Trân việc dịch thơ thành máu giặc hay máu người,
Vũ Bình Lục viết :
“ Trộm nghĩ, cụ
Đào và Nam
Trân, có lẽ chưa chuyển tải được đầy đủ tình ý của tác giả ở hai câu kết này.
Trần Minh Tông viết “ tưởng rằng máu người chết trận vẫn chưa khô”, nghĩa là
máu giặc xâm lăng như còn đỏ ngầu trên dòng sông Bạch Đằng, và cả máu của những
anh hùng hữu danh và vô danh con dân nước Đại Việt ta nữa chứ! Máu ta, máu giặc
cùng hòa vào dòng sông, đều cùng là máu người cả, bởi “ máu người không phải nước lã”. Những chiến binh phía Nguyên Mông, chỉ là những nông dân vô tội, bị ép buộc phải
cầm vũ khí, phải chết một cách vô nghĩa vì quyền lợi và tham vọng bẩn thỉu của
bọn cầm quyền ngạo mạn, sao chẳng đáng thương? Nên chi vua Trần Minh Tông mới
viết là “ máu người chết trận” ( thác nghi chiến huyết), chứ không chỉ là “máu
giặc”, đủ thấy một tấm lòng thương người không biên giới, một minh triết nhân
văn sâu rộng đến nhường nào!” ( trang 218).
- Nhân bàn về sai lầm của vua Trần Minh Tông và sự ân
hận của nhà vua, Vũ Bình Lục biện giải : “ Bậc thánh nhân chưa hẳn là đã toàn
bích. Đến như Lê Lợi là vị vua anh hùng, nhưng ông ấy cũng phạm những sai lầm
nghiêm trọng, quá tin bọn xu thời hiểm độc, nên đã giết hại một số trung thần
khai quốc. Lại đến như vua Lê Thánh Tông, một vị vua sáng, anh hùng, có công
lớn với đất nước, cũng là người minh oan cho Nguyễn Trãi sau này. Minh oan cho
Nguyễn Trãi là sáng suốt rồi, nhưng không dám minh oan cho bà Nguyễn Thị Lộ,
thì đó lại là một sự thiếu trung thực. Cuối đời, Lê Thánh Tông cũng mắc sai lầm
nghiêm trọng, nghe sàm tấu mà giết hại mấy trung thần. Chả thấy các vị vua ấy
có lời hối hận nào được ghi vào sử sách hay văn chương cả. Thế mà thiên hạ vẫn
hết lời ca ngợi Lê Lợi, Lê Thánh Tông, là bởi vì người ta nhìn thấy rừng, chứ
không chỉ nhìn vào cây, không chỉ biết có cây vậy!” ( trang 220).
- Nhân chữ Thẹn trong bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, tác giả bình “ Đó chính là sự thẹn
thùng có liêm sỉ của một nhân cách lớn, muốn vươn tới đỉnh cao của người quân
tử chính danh. Thơ của ông cha ta thời trung đại, cũng thấy thể hiện không ít
chữ thẹn thùng, ví như Chu
Văn An, ví như Nguyễn Trãi, Nguyễn Thiên Tích,
Lý Tử Tấn, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, rồi cả Nguyễn Khuyến chẳng hạn…Thẹn thùng
được thể hiện như một uyển ngữ, vừa là tâm trạng, vừa là thái độ và trong đó
ngầm chuyển tải thông điệp về ý chí của con người cá nhân ở những cấp độ và màu
sắc khác nhau” ( trang 257-258).
- Vũ Bình Lục đã tranh luận nhẹ nhàng với các tác giả
sách “ thơ văn Lý Trần, tập III “ nếu dịch Oanh
hoa là mùa xuân, không sai, nhưng mà lại không ăn nhập với câu cuối. Chả lẽ
Mùa
xuân lại làm rối nắng mai, tức nắng xuân hay sao? […] Chúng tôi dịch
ra thơ : Oanh hoa hưng phế chẳng màng/ Vô
tư đùa dỡn với chàng nắng mai là có thể chuyển tải đúng tinh thần nguyên
tác chăng? “ ( trang 321)
Quan sát các bài viết của Vũ Bình Lục, chúng tôi thấy
tác giả khi kết thúc bài viết rất hay dùng câu hỏi tu từ ( như câu vừa dẫn). Có
thể thấy kiểu kết thúc này trong phần
cuối bài bình giải ở các trang: 78, 84, 104, 105, 109, 113, 125, 176, 180, 184,
202, 212, 220, 225, 249, 280. 290, 297, 313, 321, 350, 363, 387, 425, 464, 479,
497, 527, 532, 562, 578, 591, 608, 636, 669, 677, 692. Gần 40 mươi lần dùng câu hỏi tu từ khi kết
thúc bài viết. Chưa kể cũng số lượng nhiều hơn gấp đôi như thế
câu hỏi tu từ không khẳng định
dứt khoát ở giữa bài. Điều này cho thấy
cách diễn đạt mềm mại, uyển chuyển của tác giả, vừa thể hiện sự khiêm nhường,
vừa thể hiện tinh thần dân chủ, đối thoại với người đọc và cũng không gắng gỏi
áp đặt hay ép buộc mọi người.
3. Tất nhiên, có nhiều lí do khác nhau, bên cạnh những
thành công to lớn, đáng khẳng định, tác giả vẫn còn để lại những “ thiếu sót”
theo chúng tôi là rất đáng tiếc. Với
mong muốn trao đổi lại để tác giả hoàn thiện khi tái bản, chúng tôi mạnh dạn
nêu ra một số điều mà “với con mắt hạt đậu” chúng tôi thấy khi chăm chú đọc
cuốn sách này.
Thứ nhất là những sai sót về mặt kĩ thuật.
Một
số trang đã in thiếu chữ Hán
-
trang 53 thiếu
hai câu thơ 7 và 8.
-
Trang 99 thiếu
chữ “viên” ở câu thơ đầu
-
Trang 110, bài
thơ 10 câu, thiếu 3 câu (8,9,10)
-
Trang 121, thiếu
4 chữ cuối của 4 câu thơ
Một
số phiên âm thiếu hoặc sai
-
Trang 59 chữ Hán
viết : xuất nham đầu, trang 60 lại phiên là thất nham đầu.
-
Trang 91 chữ Hán
viết : Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn, trang 92 không phiên âm dòng nhan đề bài
kệ.
-
Trang 132, câu
thơ chữ Hán thứ 2 của bài một viết :
tùng tâm,
phiên âm thành tùng lâm.
-
Trang 213, câu
thơ chữ Hán thứ 5 viết là Sơn hà kim cổ, lại phiên âm thành Thiên
hà kim cổ.
-
Trang 259, câu
thơ chữ Hán thứ 8 viết là kiến vịnh thi,
lại phiên âm thành kiến vịnh chi.
-
Trang 273, cùng
một chữ Hán, sách Hợp tuyển thế kỉ X- thế kỉ XVII ghi là Bùi Tông Quán, tác giả
lại phiên thành Bùi Tông Hoan. Cũng
trang này, câu thơ thứ nhất chữ Hán viết lập giang thiên, lại phiên thành
lập giang biên.
-
Trang 291, câu
thứ 7 và 8 không ghi phiên âm : Kỉ đa
lỗi khối huy trung sự/ Thả hướng tôn tiền thi nhất kiêu. Mà thay bằng
hai câu giải nghĩa.
-
Trang 295 câu thơ
chữ Hán thứ tư viết Xuân vũ, lại phiên thành Hiểu vũ.
-
Trang 298 , nhan
đề bài thơ bằng chữ Hán viết : Tống Đỗ Ân Ky tử quá Chí Linh. Phiên âm thiếu
chữ tử,
và sai nghiêm trọng là Đỗ, phiên thành Đồ, dẫn đến hiểu nhầm chết người rằng Tiễn ông đồ Ân Ky.
-
Trang 302, nhan
đề chữ Hán : Tiên Du sơn Vạn Phúc Tự, phiên âm thiếu chữ sơn.
-
Trang 310, câu thơ chữ Hán thứ 6, phiên âm lỗi vi tính
chữ man
( cũng đọc là mạn) thành makn.
-
Trang 317, câu
thơ thứ 4 chữ Hán viết cổ danh, lại phiên thành cổ thanh.
-
Trang 322, câu
thơ chữ Hán thứ ba viết Quân vương, lại phiên thành quan vương.
Đặc biệt nghiêm trọng là chữ “phong”
trong nhan đề Động Nhiên phong hữu cảm.
Chữ phong này có nghĩa là đỉnh, chỏm núi. Khi dịch nghĩa thì chữ Phong
được dịch thành Đỉnh mới đúng. Vì thế sẽ
dịch nhan đề là : Cảm xúc khi qua đỉnh Động Nhiên. Nhưng đã viết sai thành
qua đình Động Nhiên, một sai sót nghiêm trọng.
-
Trang 333, câu
thơ chữ Hán thứ nhất viết : Nhất đôi thạch
lão khi phiên âm lại thành Nhất
đôi lão thạch. Câu thơ thứ tư
chữ Hán viết: Võng la chỉ thị, phiên âm lại thành : Võng la chính
thị.
-
Trang 405,
nhan đề chữ Hán in nhầm Tương
gian cảm hoài, trong khi phiên âm lại là “ Vãn Châu Ngân Giang dịch”. Cũng cần nói thêm khi dịch nghĩa lại thành
“Tới trạm Ngân Giang ở Linh Châu”, trang 407 viết Ngân
Giang thuộc Linh Châu. Vậy Vãn Châu hay Linh
Châu là đúng?
-
Trang 544 nhan đề
chữ Hán viết Bão Phúc nham, phiên âm thành Bão
Phúc nam.
- Trang 609, nhan đề và phiên âm Yên
Tử sơn am cư, khi dịch nghĩa
lại bỏ mất chữ Yên Tử, chỉ còn Ở am trên
núi.
Chúng tôi cũng muốn trao đổi lại một số điều nho nhỏ
nữa với tác giả. Ví như tác giả đặt nhan đề là “ Hồn thiền trong thơ Lý- Trần”.
Nhưng thế nào là vị thiền, màu thiền, phong vị thiền, hồn thiền là một chuyện
quá khó. Hơn nữa, thơ của thời nhà Lý
thì rõ là thơ thiền, nhưng thơ nhà Trần, không phải bài nào cũng mang hồn
thiền. Chỉ có một số nhà vua đi tu, một số vị quan lánh đời, nhưng ngay với
những người này không phải bài nào cũng mang hồn thiền. Tác giả trong phần tiểu
luận : “Thơ Lý-Trần một kì quan rực rỡ” đã không lí giải được hồn thiền và tiêu
chí của nó cho cặn kẽ, và hình như có vẻ né tránh khi viết khái quát thơ thời
Trần. Thiết tưởng chính xác nhất, cái tên của tập này phải là Thơ
Lý- Trần ( tinh tuyển, dịch thơ và bình giải).
Việc
dịch thơ của tác giả chúng tôi đã nói khái quát về thành tựu ở phần trên. Tuy
vậy, đọc kĩ, vẫn thấy có thể cần phải trao đổi lại đôi điều. Chẳng hạn với bài Nam quốc
sơn hà, các nhà nghiên cứu đã xác định không phải của Lí Thường Kiệt.
Rồi có nên dịch quá thoát như Vũ Bình Lục “ non
sông đây, có chủ rồi” câu thơ Sông núi nước Nam,
vua Nam
ở ?
Bản dịch thơ ở trang 45: Trâm anh trót đã mắc câu bầy cò. Người đọc câu này sẽ ngỡ bầy cò
đánh bẫy trâm anh. Trong khi đó nguyên tác là “ trót vướng trâm anh trong bầy
cò”, nghĩa là cũng vướng vào trâm anh như
bầy cò đó.
Trang 69. Sách Hợp tuyển dịch Ngư nhàn là Cảnh thanh nhàn của ngư ông, tác giả theo sách khác hay tự dịch
thành Cái nhàn của làng chài. Thật ra
làng chài chỉ được nhắc đến trong một câu thơ mà chỉ là tả cảnh ( một xóm dâu
gai, một xóm khói mây), còn ngư ông được nhắc trong hai câu, trong đó có câu
kết. ( Ngư ông ngủ say, không ai gọi/ Quá trưa tỉnh dậy, tuyết xuống đầy
thuyền). Đọc cả bài thì thấy cảnh nhàn của ngư ông mới là chính xác.
Trang 165, bản dịch nghĩa : Khác nào “ trông tường
thấy bóng, ăn canh thấy hình” dẫn điển tích vua Nghiêu nhớ vua Thuấn, thấy vua
Thuấn hiện trên tường ( khi ngồi nhìn),
trong bát canh ( khi ăn). Tác giả dịch thành thơ “ Trông tường như thấy Thuấn
Nghiêu dáng hình”. Hóa ra Trần
Nhân Tông thấy cả Nghiêu và Thuấn
? Lẽ ra cần dịch :
Chùa Phổ Minh vẫn cô liêu
Tựa vua Thuấn nhớ vua Nghiêu thuở nào
mới đúng điển cố và sáng nghĩa.
- Trang 178 tác giả dịch :
Những quan thất phẩm áo khăn chỉnh
tề. Nguyên văn Y quan thất phẩm, nghĩa là Áo mũ chỉnh tề các quan đủ bảy hạng
( từ nhất phẩm đến thất phẩm). Nên dịch Các
quan bảy hạng áo khăn chỉnh tề mới chính xác.
-
Trang 185, tác giả dịch câu thơ chữ Hán “ Thụy khởi châm thanh hà mịch
xứ” thành “ Chợt tiếng chày ai say đập áo”, trang sau lại bình giải
“
tiếng chày đập vải thùm thụp sôi lên nhịp sống lao động rất đời thường, thanh
bình và yên ấm, khiến người thơ như bừng tỉnh giấc chiêm bao”
(
VN nhấn mạnh) . Như thế hoàn toàn sai lệch so với nguyên tác. Bản dịch đúng, in
trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam
chúng tôi đã dẫn ( trang 85)
,
câu này là “ Thức dậy, tiếng chày đã vắng ngắt”.
- Trang 209 bài mưa đêm, bản dịch nghĩa dịch : Há đâu chịu ngồi ôm mối sầu mà nghe mưa rơi,
khi bình giải ở trang 211, Vũ Bình Lục đã bình đúng : “ Nhưng đã biết sai rồi
thì phải kiên quyết sửa lỗi, dẫu có muộn màng, chứ không thể cứ ngồi ôm mối u
hoài mà than vãn suông “ Há đâu chịu ôm mối sầu mà nghe mưa rơi” ! Đáng tiếc,
khi dịch thơ, lẽ ra cần dịch : Há ôm sầu
hận lặng thầm nghe mưa thì tác giả lại dịch thành : Đành ôm sầu hận lặng thầm nghe mưa. Một đằng là không chịu, một
đằng là buông xuôi, khác hẳn nhau.
- Trang 307 câu thơ chữ Hán : Nhất
vị thuần lô nãi nhĩ hà. Dịch nghĩa
: nhưng phong vị cá, rau quyến luyến làm sao. Thuần là rau thuần, lô là cá lô. Câu thơ dịch
Thú quê thuần vược níu chân khách phàm, hai
chữ “thuần vược” lại thành điển cố mới, trong khi có thể dịch giản dị : Thú quê rau, cá níu chân khách phàm…
- Trang 385 câu thơ chữ Hán : Dã
điệp thâu hương đới phấn khinh Bản dịch nghĩa không rõ vì sao lại thành
Bướm nội trộm hương nhẹ nhàng mang theo phấn. Vũ Bình Lục bị ám ảnh bởi
chữ trộm, nên dịch : Bướm trộm hương nhẹ nhàng qua trước thềm.
Oan cho bướm quá. Chữ thâu chỉ có nghĩa là thu,
bướm đi thu hương hoa thôi, làm gì có chuyện trộm cắp ở đây!
Cũng còn một vài chỗ có thể trao đổi cho minh bạch,
tránh hiểu lầm. Chẳng hạn tác giả bình giải chữ câu tử ( con ngựa non,
con ngựa khỏe, con ngựa hai tuổi) thành ra ngựa quý, rồi lại lan man “ Ngựa
quý, là Ngựa Kỳ, ngựa Ký, còn gọi là “thiên lí mã” ( trang 61). Khác xa với
nguyên bản.
Trang 194, câu thơ của Trần Anh Tông : Bất phục du chàng nhập mộng trung. Khi
bình giải, Vũ Bình Lục đã công phu dẫn Du
chàng là màn trướng ( trang 197)
theo sách Di phục chí. Chúng tôi xem trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ X – thế kỉ XVII, thì chữ du
chàng được hiểu là lá cờ lệnh. Thực tế, tra chữ chàng,
thì được rõ đó là một loại cờ. Giữa cờ
lệnh và màn trướng, chúng tôi
thấy cách giải thích của sách Hợp tuyển
khả tín hơn.
Trang 416, Vũ Bình Lục dịch : Áo chiến bào đã ướt đầm sương mai. Thật ra, chinh chữ Hán có nghĩa
trước hết là đi xa, nghĩa thứ hai mới là đánh
nhau, còn hai nghĩa nữa là thu lấy
và tiến lên. Chúng ta gặp chữ này
trong câu thơ ở bài Tảo giải của Hồ Chí Minh : Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng (
Người đi cất bước trên đường thẳm). Ở đây chinh
bào chỉ có thể hiểu là áo người đi xa. Mà ông quan đi sứ
chứ có ra trận đâu mà lại mặc chiến bào?
Cũng về bài thơ này, Vũ Bình Lục nêu ra băn khoăn về
chuyện đi sứ của Nguyễn Trung Ngạn. Ông đi sứ lần thứ nhất để đáp lễ nhà Nguyên
1314- 1315 thì đã rõ, được ghi trong chính sử. Vì ở bài thơ này có chuyện cờ
Hán, mà Hán thì không phải nhà Hán của Lưu Bang,
vậy Hán nào? Vũ Bình Lục ngờ rằng có thể Nguyễn Trung Ngạn cầm đầu sứ đoàn sang
thăm dò Trần Hữu Lượng ( con Trần Ích Tắc), người xưng đế, gọi là Hán đánh
nhau với Chu Nguyên Chương nhà Minh.
Vấn đề là cờ Hán và ngựa Hồ trong bài thơ nên
hiểu như thế nào. Nếu cờ Hán là cờ của Trần Hữu Lượng, vậy ngựa Hồ là ngựa của ai? Tác giả giải thích: ngựa Hồ không hẳn chỉ quân Nguyên
Mông nói chung, hay chỉ là để đối với cờ
Hán cho chỉnh câu văn? Chúng tôi cho
rằng không nên hiểu chi tiết Hán, Hồ như thế. Đây chỉ như là thi
liệu có tính ước lệ mà nhà thơ
dùng để chỉ những gì nhìn thấy trên đất
khách mà thôi.
Chúng tôi đã dẫn ra những chỗ còn phân vân của mình về
cuốn sách công phu và tâm huyết của nhà giáo, nhà thơ, nhà nghiên cứu Vũ Bình
Lục. Như đã nói trước, với lòng yêu mến và trân trọng tác giả, chúng tôi “vẽ
rắn thêm chân” chẳng qua muốn thấy cuốn sách hoàn thiện, xứng với công sức, tấm
lòng của tác giả với tiền nhân, với lịch sử văn học dân tộc. Những gợi ý của chúng tôi hi vọng sẽ được tác giả để mắt
tới, ngõ hầu làm cho cuốn sách phục vụ tốt nhất cho bạn đọc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét