Vũ Nho, chủ trang
LỤC BÁT VÀ THƠ
NGUYỄN THẾ KIÊN
PGS, TS, Nhà văn,
Nhà phê bình văn học
Vũ Nho
N
|
ước Việt Nam nông nghiệp quá trình đô thị
hóa chậm chạp cho nên mỗi người dân đều có gốc gác một người nhà quê là điều hiển nhiên. Nhưng gần đây, các thị xã đã lần lượt
lên thành phố, các huyện lị cũng thành ra phố xá, và ngay cả làng thì cũng
không ít làng thành ra phố. Cho nên giữa phố và làng có sự giao thoa, thay đổi mà càng ngày phố càng
lấn làng. Chưa kể một bộ phận dân cư của làng, chuyển ra ở phố rồi “cắt hộ
khẩu” vĩnh viễn. Một số khác thì nói như Lê Tiến Vượng trong Lục bát bên đời:
Người quê ra phố quên dần nhà quê” (Người đi ra phố).
Nửa thế kỉ trước, ở Nam Định có một người quê “dan díu với kinh thành”
nhưng luôn luôn khắc khoải về quê, luôn luôn muốn bảo tồn những nét “chân quê”,
ngại ngùng những khăn nhung, quần lĩnh, áo cài khuy bấm. Tuy mong muốn
không thành, nhưng ông đã để vào kho tàng lục bát và kho tàng thơ ca đất nước
một giọng điệu thống thiết đến nỗi đời sau gọi ông là thi sĩ “chân quê”, thi sĩ
“ bướm trắng tơ vàng”. Đồng hương trẻ Nam
Định của ông, cũng là một cây lục bát, nhà thơ kiêm PGS.TS luật học Phạm Công
Trứ tiếp tục làm giàu gia tài lục bát, nhưng anh không ngồi trong bóng râm, bị
cớm nắng bởi cái bóng lừng lững Nguyễn Bính. Họ Phạm đã đưa vào lục bát giọng
giễu nhại, giễu mình, giễu người và giễu đời. Cái mà bậc đàn anh không có. Bởi
thế mà Phạm Công Trứ có những gặt hái thành công. Bây giờ lại có một chàng lãng
tử của đất Nam
Định dấn thân vào lục bát. Giữa những lúc thị trường tràn ngập thơ cách tân, thời
thượng theo mốt, thơ tân hình thức, thơ
hậu hiện đại với những tuyên ngôn kêu hơn chuông đồng, vang hơn mõ gỗ thì
Nguyễn Thế Kiên “ mang theo một thúng ngôn từ chắt ra từ gốc rạ đồng chiêm”,
tự tin đến mức liều lĩnh, xây ngôi đền văn chương của riêng mình bằng lục bát,
một thứ nguyên liệu sẵn có, dễ kiếm, dễ tìm nhưng phải là thợ xây có hạng mới
dám sử dụng. Và dẫu sao thì ông thợ xây
lục bát ấy đã thành công bước đầu. Hai cái giải thưởng văn chương, một của UBND
tỉnh Nam Định ( 5 năm trao một lần), một của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp
các hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam cho hai tập thơ đã làm cho người thơ vững
tin mà lấy một bút danh kienlucbat, ghi lên hòm thư điện tử để có thể
giao dịch với toàn cầu.
Vậy thì
Nguyễn Thế Kiên đã đóng góp gì vào thơ bây giờ bằng thể thơ lục bát? Câu hỏi
này đặt ra cho không chỉ người nghiên cứu, phê bình, mà cho tất cả những ai yêu
văn chương, đặc biệt là yêu thể thơ truyền thống của dân tộc.
Trước hết Lục
bát Nguyễn Thế Kiên là lục bát thế sự, là thơ về những nỗi niềm, những phận
người nhỏ bé, vô danh thường có cái tên chung là thường dân. Mang câu lục bát nói lời thường dân (
Tự bạch). Đấy có thể coi như mục đích sáng tác hay gọi cho sang trọng một tí là
tuyên ngôn nghệ thuật - (một cái thuật ngữ chả còn mấy chút sang trọng khi loạn
tuyên ngôn!). Thơ lục bát ấy không xuất phát từ tháp ngà, không được tạo ra từ
phòng điều hòa mát lạnh. Nó được hình thành từ rơm rạ, từ bùn đất, từ hạt lúa,
củ khoai mang đậm nỗi nhọc nhằn và hồn vía nhà quê. Không ít lần nhà thơ khẳng
định:
- Ngược
xuôi đi giữa tảo tần
Hồn rơm vía rạ hóa
thân mà thành
( Tự bạch)
- Nứt từ ngang dọc tơi
bời…thơ lên
(Bão và thơ)
- Thơ từ vạn nẻo đắng
cay
Ủ thơm lên những tháng
ngày tha hương
(Giá trị)
Khi mà con
người nhà quê ra phố thì cảm giác thường
là thương nhớ đồng quê, thương nhớ những
người vất vả một nắng hai sương, quần quật làm ăn, nhưng cuộc sống không mấy dễ
chịu, thường là vẫn nghèo, vẫn phấp phỏng trước thiên tai, mất mùa, mất đất. Có
người buồn nhớ trước những thay đổi làm mất mái gianh, mất câu chèo cổ, mất
cảnh yên bình, mất những yên ả, trong lành của tình làng nghĩa xóm. (xem Lục
bát bên đời của Lê Tiến Vượng, nxb Hội Nhà văn, 2014). Nguyễn Thế Kiên
không hoài cổ, cũng không phê phán. Anh chỉ nói cái bền bỉ, cái vất vả của làng
mình. Không hề tô vẽ hay lãng mạn hóa:
Gối đầu
lên nắng lên sương
Làng tôi riêng những
yêu thương một niềm
(Gửi làng Phú Giáp của
tôi)
Dấu yêu
trên những tròng trành
Tím bầm mưa nắng đọng
thành làng tôi
(Làng tôi)
Cái làng ấy
đã hình thành từ bao đời. Người làng, người quê cũng từ bao đời lam làm với mưa
nắng, ruộng đồng. Cho nên tình làng,
tình người ấy giản dị thôi mà đằm sâu lắm. Dù là ở lại làng hay lên phố, hoặc
đi làm ăn xa tận miền ngược, miền Nam,
hoặc xuất khẩu lao động nước ngoài, thì ấn tượng về cuộc sống làng vẫn không mờ
phai. Vẫn biết vai trò của người làm ruộng:
Người quê
gieo những âm thầm
Để cho mưa nắng bật
mầm mà xanh
(Chuyện quê)
Mùa màng ấy
là niềm vui, là nỗi lo, là sự phấp phỏng của người quê với đất đai:
Lưng trần
phơi ải ngàn sau
Cánh đồng chua bạc mái
đầu người quê
(Làng tôi)
Người quê như
gốc rạ, giàu sức sống, bền bỉ, dẻo dai:
Gốc trắng,
xương chìm bồi vô tư vào đất
Cho những cánh đồng
bốn mùa ở cữ
Dưới trời xanh mãi
kiếp nông dân
Nhìn gốc rạ nảy mầm, nghĩ về kiếp nông dân
Với người lao
động thì rạ, rơm là thân thuộc, cây lúa là thành quả lao động, là hi vọng.
Nhưng:
Mai rồi
kiếp lúa về đâu
Mưa xanh nắng đỏ dãi
dầu mãi thôi
(Ngược hội
Phủ Dầy)
Phố đang lấn
làng, những cánh đồng bờ xôi ruộng mật
nhường chỗ cho nhà cửa, đất rào dự án. Lại thêm cảnh thiên tai, lũ lụt mất mùa.
Thế là người quê phải dạt lên phố kiếm việc, bán sức lao động rẻ ở những “chợ
người”:
Quê nghèo
nước mắt chảy quanh
Dấu chân cửu vạn thị
thành dày hơn
(Những tháng ngày sau bão)
Chỉ bấy nhiêu thôi, thơ của Nguyễn Thế Kiên đã khẳng định được giá trị
của mình, giá trị của việc nói lên tiếng nói, tâm tư của người làm ra hạt lúa,
củ khoai, mà trước đó trong làng thơ Việt đông đảo, chỉ có một mình nhà thơ quê
gốc Hải Dương Vũ Xuân Hoát.
Mặt khác
Nguyễn Thế Kiên góp vào tiếng nói thơ ca một giọng điệu thẳng thắn, hồn nhiên
khỏe khoắn giàu chất dân dã. Cái vốn từ ngữ đo bằng thúng của đồng chiêm ấy
được trau chuốt và làm thành một giọng điệu. Giọng điệu ấy thể hiện những cảm xúc mạnh mẽ “ buồn vui hừng hực dốc
qua Mặt trời” (Nhận diện). Chúng ta sẽ bắt gặp nhưng câu nói tự nhiên “sụt
sịt cười”, “oang oang khóc”, “còi cọc ươn” ( Về), “len lén buồn” ( Gửi quê),
“roi rói xòe” ( Nói với dạ - vâng), “ong óc cơn mưa” ( Nghệ thuật) “ sấm rơm
rớm vỡ” (Đò lá). Ta sẽ chứng kiến cảnh “cãi nhau với mình” thật hài hước giàu
chất tự thú, giễu nhại:
Tôi giờ
chả sợ gì tôi
Vô tư ngoen ngoét
những lời chua ngoa
Cãi nhau với chính tôi
mà
(Cãi nhau với mình)
Những khẩu
ngữ: Lạy giời; Ối giời; Này này; Thôi
nào; Ơ kìa; Thì ra; Thế là; Kệ đi; Khổ chưa;
Gớm chưa; Khổ lắm; Ô hay; Thế rồi; Chết chưa; Nói thật; Thì vẫn thế; Ừ
đúng thế; Ừ, em nhé… làm cho thơ ca gần tiếng nói đời thường. Những câu thơ
dùng từ ngữ chắt từ rơm rạ, từ bờ tre ruộng lúa, từ đất bãi, mương đồng quả là
ấn tượng:
Giàn trầu
phơi áo eo lưng
Em hây hây trẻ mình
tưng tửng già
(Thơ)
Trẻ con lắm, trẻ con à
Em tơn tớn...đổ mưa xa gió gần
Ối giời, đuôi mắt có chân
(Trẻ con...)
Đêm giờ rẻ thối ra anh
Cò kè ...
Trăm rưởi là thành một đôi
(Bã đêm)
Chỉ còn mấy sợi râu thôi
Cứ ngo ngoe bạc trong tồi tội yêu
Đừng tin thiên hạ nói liều
(Gửi tháng
ba quê)
Lục bát tình yêu và những
bài thơ khác của Nguyễn Thế Kiên về cõi tình có một vẻ riêng, hồn nhiên,
hài hước mà không kém phần say đắm.
Chàng thi sĩ kêu toáng lên khi phát
hiện được giới tính của ông Trời trong cơn thất thường mưa nắng, đúng là giới
tính của phụ nữ :
Giời ơi, giới tính của Trời
Cũng là hồng má, thắm môi...Đàn bà !
(Giới tính của trời)
Nhiều hơn thế, Thơ
lục bát nói riêng và thơ Nguyễn Thế Kiên còn góp vào một chiêm nghiệm, một bình luận, một quan niệm về
thơ, về đời. Không lí luận và lập luận dài dòng, tác giả viết về một thời thơ cần xem lại:
Một thời thơ bỏ xa thơ
Ngây ngô ru ngủ bến bờ nhân gian
Đem khoe những cái nghèo nàn
Thành gia sản giữa
miên man thánh thần
(Chuyện một
thời…)
Thơ phải từ
bộn bề đời sống, phải nói tiếng nói của người lao động, phải đau nỗi đau nghèo
nàn, lạc hậu của kiếp người, của đất nước. Thơ không phải là sự làm đẹp, càng
không phải giả tạo, ngoảnh mặt với đời sống. Có lẽ một thời thơ văn đã từng
thiên lệch? Nên chi có thể khái quát:
Một thời
giờ hóa khói sương
Văn chương từ mặt đau
thương kiếp người
Bình minh mắc ngược
chân trời
(Chuyện một
thời…)
Và
Trăm năm
ngoảnh mặt giả vờ
Khuy yêu cài lệch.
Bất ngờ tuột.
Thương
Tác giả muốn văn chương của mình mang sự hồn nhiên, trong trẻo, vượt qua
những khuôn thước cứng nhắc. Bởi thế mà có sự giễu nhại:
Tôi chuẩn
mực, tôi uy nghi
Tôi là cái máy đang đi
vết người
(Chuẩn mực)
Và những câu
thơ như là tự thú này cũng nói lên một phần sự thật, mong muốn đem cái xù xì,
trần tục, bỗ bã của đời thường vào thơ:
Dạ vâng
thưa gửi cả ngày
Bỗng thèm nói tục thế
này giời ơi
(Nói với dạ vâng)
Chuyện nói tục, dùng khẩu văn, Nguyễn Quang Lập đã thành công. Nhà thơ đồng
chiêm Ý Yên, Nam
Định cũng theo xu hướng đó.
Dù đã lấy lục
bát làm bút hiệu của mình, nhưng Nguyễn Thế Kiên không độc canh lục bát. Tác
giả còn làm nhiều thể loại thơ khác. Rồi còn viết tản văn, viết truyện ngắn,
viết phê bình văn học. Năng lượng sáng tạo như muốn cựa quậy trào ra những
trang viết. Phải chăng, dường như cũng có lúc thoáng nghi ngờ:
Anh không
nhiều lúc thật thà
Chút duyên lục bát,
gần xa ngán rồi
(Gửi tháng ba quê)
Thời tôi
cả nước làm thơ
Nên câu chữ thiếu bây
giờ đi vay
Thời tôi điên giả để
say
Câu thơ nhuốm đỏ cối
chày thời tôi
Thời tôi lục bát chết
rồi…
(Lục bát thời tôi sống)
Chắc là nói quá lên thôi. Phóng đại vốn chẳng phải là mới
lạ kể từ thuở ca dao của ông bà. Những dù
thế nào, Nguyễn Thế Kiên cũng đã có thành tựu thơ, nhất là lục bát. Vấn
đề còn lại là phải nhất tâm, phải chuyên chú, phải tiết chế việc viết. Văn
chương quý hồ tinh bất quý hồ đa! Điều ấy hẳn tác giả đã biết, nhưng nhắc ở
đây, thiết nghĩ cũng không thừa.
Hà Nội, 29 tháng 4 năm 2015
Lời bạt cho tập Mãi tin vào những kiếp người của Nguyễn Thế Kiên, nxb Hội Nhà văn, 2015
Rượu không nhãn mác thì khó có thể quảng cáo là ngon. Nhưng có những chai rượu nhãn mác hẳn hoi mà vẫn chưa thể tin là rượu thật.
Trả lờiXóaBạn nói ngụ ý xa xôi! Nhưng không nhãn mác, người uống sành vẫn khẳng định ngon. Còn có nhãn mác thì cũng chỉ là nhãn mác thôi, chắc gì đã là rượu thật. Thơ, cũng như rượu, cứ phải thử nếm rồi mới kết luận, không phụ thuộc vào be nút lá chuối hay chai hộp sáng choang!
Xóa