TRIẾT LÝ
BÌNH DÂN
HAY TRÒ CHƠI
CHỮ?!
(Khảo
bình)
ĐƯỜNG VĂN
Sinh con rồi mới sinh cha,
Sinh cháu giữ nhà, rồi mới sinh ông!
(Tục ngữ)
1. Từ tục
ngữ đến truyện cổ tích
Đây
là câu tục ngữ về đạo đức, lối
sống của nhân dân được diễn đạt bằng hình
thức văn vần lục bát nên có người lầm
tưởng đó là câu ca dao! Thực ra, từ
trong bản chất, nó là tục ngữ 100% (có tính lý trí cao, khái quát chân lý,
triết lý mang tính kinh nghiệm dân dã, yếu tố cảm xúc, tình cảm tiết chế tối
thiểu).
Có một truyện cổ tích minh họa cho câu tục ngữ này. (Đọc bộ: Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam
- Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, biên soạn, khảo dị, chú thích; tái bản 1997, tập 2).
Tóm tắt truyện như sau:
Giáp
và Ất là hai người bạn thân. Nhà Giáp
giàu. Nhà Ất nghèo. Không chịu mãi cảnh sống túng thiếu, Ất vay Giáp 5 lạng bạc và chia tay bạn, đưa vợ con đi xa lập nghiệp; hẹn bao
giờ có điều kiện sẽ hoàn trả Giáp. Nhiều năm đã trôi qua, không có tin tức gì
về Ất và gia đình bạn, Giáp quyết định giắt theo 5 lạng bạc để nếu Ất vẫn túng thiếu thì sẽ tiếp tục giúp bạn. Tìm
được nhà mới của Ất – một dương cơ bề thế, sung túc. Thấy bạn ăn nên làm ra,
chắc sẽ không cần đến tiền nữa, Giáp tìm cách giấu 5 lạng bạc trên nóc cổng nhà
Ất (hoặc đào hố chôn bên cạnh cổng) rồi mới vào thăm gia đình bạn cũ. Vợ chồng
Ất mừng ít, ngạc nhiên thì nhiều và đặc biệt lo lắng; vì nghĩ chắc Giáp đến đòi
món nợ cũ mà vợ chồng hắn dù đã giàu có, càng không nghĩ tới chuyện trả lại
người bạn tốt bụng. Vợ chồng Ất tìm cách bí mật và bất ngờ giết chết Giáp rồi
chôn xác bạn ở góc vườn. Ít lâu sau, từ chỗ đó mọc lên 1 cây khế xanh tốt. Đến
mùa, cây khế chỉ cho 1 quả to, chín mọng. Lấy nhau đã bao năm mà vợ chồng Ất
vẫn chưa có con. Năm ấy, vợ Ất bỗng có dấu hiệu khác thường, thèm ăn khế. Thị mới
ra vườn, trẩy, ăn quả khế duy nhất ấy. Vợ Ất có thai, 9 tháng sau sinh được 1
đứa con trai khôi ngô, kháu khỉnh, khỏe mạnh; nhưng đã 8 tuổi mà vẫn chẳng biết
nói năng gì!? Cầu cúng, thầy thợ hết cách. Bỗng một lần, sau khi nghe lời than
thở, nỉ non của vợ Ất, thằng bé bỗng bật nói rành rõ, chỉ một câu:
-
Cha mẹ cứ mời
quan huyện đến đây, con có chuyện muốn nói.
Vợ chồng Ất mừng hết nói, lập tức mời quan
huyện sở tại đến nhà theo yêu cầu của quý tử. Trước mặt quan huyện và cả nhà
Ất, thằng bé kể lại đầu đuôi câu chuyện cũ nhiều năm về trước. Nó chính là hậu thân (kiếp sau) của Giáp. Sau khi bị
giết, linh hồn Giáp biến thành cây
khế, quả khế, rồi đầu thai vào làm
con của vợ chồng Ất. Bây giờ, Giáp mới có cơ hội tố cáo vợ chồng tên bạn vô ơn,
độc ác, giết người, quỵt nợ. Quan huyện mới đầu không tin. Nhưng khi nghe lời
chỉ dẫn cặn kẽ của thằng bé, ông cho người trèo lên mái cổng (hoặc đào hố bên
cạnh cổng) nhà Ất thì quả nhiên đã thấy 5 lạng bạc mà sinh thời Giáp đã từng
cất giấu. Quan huyện lập tức ra lệnh tống ngục, mở phiên tòa định tội vợ chồng
kẻ sát nhân. Sau khi đã trả được thù, giải được nỗi oan, thằng bé (Giáp) tìm
đường về nhà mình. 8 năm đã trôi qua. Đứa cháu đích tôn của vợ chồng Giáp năm ấy
đã lên 9 tuổi, hơn ông nội nó 1 tuổi. Bởi thế dân gian mới lưu truyền câu tục
ngữ, rằng:
Sinh con rồi mới sinh cha,
Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông.
Theo nhà khảo cứu lão thành Nguyễn Đổng
Chi, truyện cổ tích này còn có nhiều dị
bản khác nhau, khá phong phú, đa dạng với một số chi tiết không hoàn toàn
giống nhau, nhưng về đại thể cốt truyện là như thế. Câu tục ngữ có trước; truyện cổ tích truyền miệng có sau, minh họa cụ thể (cổ tích hóa)
nội dung câu tục ngữ. (Cụ Nguyễn xếp vào mục: Sự tích các câu ví). Từ khi truyện cổ tích ra đời, nó song song tồn
tại, lưu truyền rộng rãi trong dân gian cùng câu tục ngữ và gây nên những cuộc
thảo luận, tranh cãi, những cách phân giải khác nhau về nội dung, ý nghĩa tư
tưởng, đạo đức, xã hội, văn hóa, thậm chí tôn giáo… không kém phần phức tạp,
thú vị và cho đến nây, cơ hồ vẫn chưa tới hồi kết!...
Dưới đây là một vài cảm luận, suy ngẫm thô
thiển bước đầu của kẻ viết bài này, trên cơ sở tiếp thu và trao đổi với một số
ý kiến từng đăng tải trên các trang mạng internet
trong vài năm gần đây.
2.
Vô lý hay có lý? Triết lý sâu xa hay chỉ là
trò chơi chữ thông minh?
Ai mới đọc, mới nghĩ lần đầu cũng đều cho
rằng câu tục ngữ này hết sức vô lý,
trái lẽ tự nhiên, không cần phải tranh cãi. Bởi vì hiển nhiên là ông sinh ra cha rồi cha mới sinh ra con
(con của con ông: cháu - đời thứ 3 kế
tiếp) chứ làm gì có chuyện ngược lại như cách nói của câu tục ngữ kỳ quái, dở
hơi kia!?
Đúng như thế! Nhưng đó mới chỉ là cái đúng
của lôgich thông thường, lôgich hình thức nhìn từ 1 phía.
Nếu xét từ ý nghĩa từ vựng: từ sinh có các nghĩa không hoàn toàn đồng
nhất:
1. Đẻ.
2. Được tạo ra.
Theo nghĩa
1, câu tục ngữ trên hoàn toàn vô lý, vô nghĩa, hoặc chỉ có nghĩa trào phúng
nói ngược, kiểu: Một đàn cào cào đuổi bắt
cá rô/ Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi/Nắm xôi nuốt trẻ lên mười…
Nhưng nếu xét theo nghĩa 2 thì lại xuất hiện điều lôgich hợp lý, rất thú vị. Đó là mối
quan hệ định vị - đặt tên mang tính liên kết - hô ứng chặt chẽ, tương tác,
không thể tách rời giữa chủ thể (sinh)
và đối tượng (do chủ thể sinh ra).
Chẳng hạn, người đàn ông mãi mãi vẫn chỉ
là người đàn ông, một thằng bòi, thằng
cu, gã trai, ông mãnh, thậm chí “lão
Cu” (tên 1 nhân vật trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Hiếu)… nào đó, nếu hắn
chưa lấy vợ, chưa có gia đình riêng. Chỉ đến khi có vợ, hắn mới được gọi là chồng
(nghĩa là trong quan hệ với vợ). Và
chỉ đến khi vợ chồng hắn có con (đẻ)
thì hắn mới được gọi là cha (bố, ba, thân
phụ, bố cu (nếu có con trai), bố đĩ (nếu có con gái).
Như thế, chẳng phải sinh con rồi mới sinh cha hay sao? Có điều, từ sinh ở đây hiểu theo nghĩa sinh ra vai trò mới, vị trí mới trong mối
quan hệ mới (cha – con, con – cha).
Nói 1 cách giản dị: Phải có sự ra đời của
đứa con trước thì người đẻ ra nó
(sinh trước) mới được xã hội công nhận là người cha (khái niệm, vai trò có sau).
Tương tự như thế, khi ta lý giải trường
hợp sinh cháu rồi mới sinh ông.
Ở đây, trong câu tục ngữ này, đã có sự đánh tráo khái niệm trong 1 trò chơi chữ thú vị giữa 2 nghiã của từ sinh, cố tình nhập nhòa 2 bình diện nghĩa
khác nhau làm một, tạo nên sự vô lý mà
hữu lý trong khi khái quát hiện thực cuộc sống con người – xã hội.
Riêng về câu tục ngữ, tôi cho rằng nó chỉ có ý nghĩa hấp dẫn, gợi tò mò, tranh
cãi trong cảm luận và lý giải dựa trên một trò
chơi ngôn ngữ tiếng Việt như thế mà thôi! Ngoài ra, bài học về phương pháp luận tư duy khi nhìn nhận,
xem xét một hiện tượng, vấn đề là cần có quan điểm cởi mở, toàn diện, tránh quyết định luận cực đoan. Cùng một
hiện tượng, sự vật, sự kiện, vấn đề, nhìn từ góc độ này thì nó thế này, xem xét
trên bình diện kia, nó lại thế khác, có khi hoàn toàn ngược lại, mà tựu trung
cả hai cách đánh giá đều đúng bởi cơ sở xuất phát điểm riêng. Ở đây, câu chuyện
ngụ ngôn Thầy bói xem voi lại phát
huy tác dụng bổ ích cho những ai vô tình hay hữu ý muốn làm triết gia nửa mùa
hay thầy bói nói mò!
Truyện cổ tích Người bạn bất lương hay là truyện Giáp - Ất là một cách lý giải huyền thoại độc đáo, thú vị của dân
gian cho cái gút mắc vô lý của câu tục ngữ, biến nó trở thành hợp lý và hấp dẫn
người nghe (đọc) qua một cốt truyện ly kỳ
vừa có thật vừa đầy rẫy tưởng tượng huyền hoặc. Từ đó, nó không còn chỉ là
trò chơi chữ vụn vặt mà đã ánh lên những tư
tưởng triết lý dân gian – tôn giáo sâu
xa, duy tâm và duy vật, cần làm rõ.
3.
Luận hồi – tái sinh: triết lý Phật Giáo
Triết lý chủ yếu và nổi bật trong truyện
mang đậm màu sắc Phật giáo. Đó là triết
lý về nghiệp chướng, luân hồi, tái
sinh. Những khái niệm triết lý trừu tượng cơ bản của đạo Phật. Mỗi con
người (chúng sinh) đều có phần xác và phần hồn.
Phần
xác (cơ thể vật chất) hữu hình, hữu thể sinh ra từ cát bụi; sau vài chục
năm sống trên trần ai, cõi
tạm, bể khổ thì hết kiếp, sẽ lại
trở về, nơi cát bụi, thành cát bụi. Hạt
bụi nào hóa kiếp thân tôi?/Để một mai tôi trở về cát bụi (Một cõi đi về - Trịnh
Công Sơn)
Phần
hồn (linh) vô hình, vô thể trú
ngụ trong thể xác; nhưng có sinh
(cùng với sự ra đời của thể xác) mà vô
diệt. Khi phần xác chết (không còn hoạt động sống) và tan rữa, phân hủy,
thì linh hồn con người tách, thoát
khỏi xác và tùy theo sự phán định của Diêm Vương sẽ được lên cõi Niết bàn,
Thiên Đường để hưởng hạnh phúc vĩnh viễn hoặc bị giam xuống Địa ngục chín tầng
(cửu u), chịu đày đọa vì những tội
lỗi mắc phải (nghiệp chướng) đã gây
ra trong cuộc đời nơi dương thế. Linh hồn ấy có thể tái sinh, sống lại, sống tiếp những kiếp khác, mới tiếp theo, cũng
có thể hóa thành cây, quả, thành con vật, đồ vật (Tấm Cám, Sự tích con nhái),
nhập vào thể xác người khác (Hồn Trương
Ba, da hàng thịt) một lần hoặc nhiều lần, tùy theo sự xếp định của Trời,
Phật, hoặc đầu thai vào một người phụ
nữ nào đó, trở lại làm người (Chuyện Từ
Đạo Hạnh); trọn một vòng (chu kỳ) luân hồi (bánh xe quay vòng) chuyển từ
kiếp này sang kiếp khác, giải thoát một lần nghiệp
chướng và có thể lại bắt đầu tạo sinh một nghiệp chướng mới.
Triết
lý tuần hoàn, luân hồi sinh - diệt - diệt - sinh của nhà Phật đề cao sự bất
diệt của linh hồn, đề cao hạnh phúc - chính
quả viên mãn nơi Cực Lạc - Niết Bàn, qua cuộc sống tu hành (tu chùa hoặc tu
tại gia) tự diệt và tận diệt thất tình,
lục dục, nghiêm chỉnh theo con đường bát
chính đạo, tuân thủ bát giới
nghiêm ngặt…Kiếp trước là nguyên nhân của kiếp sau; kiếp sau là kết quả của
kiếp trước. Triết lý nhân quả chính
là một trong những triết lý căn cốt của đạo lý Thích Ca Mâu Ni…
Trong
tiểu luận Mô típ “Tái sinh” nguồn gốc
Phật giáo trong truyện kể dân gian Việt Nam, THS La Mai Thi Gia đưa ra nhận xét:
“Thuyết
Tái sinh khẳng định rằng, con người
cũng như mọi loài hữu tình, không phải chỉ sống một đời, mà đã từng sống nhiều
đời, và sau đời sống này, sẽ tiếp tục sống nhiều đời nữa. Và sức mạnh, dẫn con
người sống đi sống lại nhiều đời như vậy là nghiệp
lực, tức là sức mạnh của nghiệp.
Thành quả của mọi việc làm của chúng ta trong đời này, tạo thành một sức mạnh,
gọi là sức mạnh của nghiệp Tái sinh,
đẩy chúng ta tới một cuộc sống mới, một cuộc đời khác, trong đó thân phận và
hoàn cảnh sống của chúng ta là do thành quả các nghiệp của đời này quyết định”.
Với quan niệm trên, Phật giáo khẳng định rằng mỗi con người là sản phẩm của
chính mình, chúng ta hiện tại là sản phẩm do chính chúng ta tạo nhân trong quá
khứ và lúc này ta đang tạo ra chính mình trong tương lai.”
Theo
tôi (ĐV), đó chính là ý nghĩa tích cực
của triết lý Tái sinh – sống lại có
nguồn gốc Phật giáo này.
Trong
truyện cổ tích Người bạn bất lương,
cái chết oan khuất, kết quả của tham lam và tội ác của vợ chồng Ất là nguyên
nhân dẫn đến cái chết và sự đầu thai,
tái sinh (sống lại trong 1 hình hài
khác) của linh hồn Giáp. Sự sống lại bằng
cách hóa thân và đầu thai này xảy ra 3 lần: thành cây khế, quả khế và đứa bé con
trai vợ chồng Ất. Xét từ mô típ Tái sinh
trong truyện dân gian: các nhân vật có thể biến hóa, đầu thai sau khi chết cũng
không phải là hiếm gặp. Xét theo giáo lý nhà Phật, triết lý luân hồi - tái sinh –
duyên nghiệp, nhân - quả, thì đó
là sự chứng giải cho nghiệp số, nghiệp
duyên của cả hai người Giáp và Ất. Phải chăng cái chết oan uổng, tức tưởi
(lấy oán trả ân, làm ơn nhận oán) mà Giáp phải gánh chịu có thể là từ nguyên
nhân món nợ kiếp trước mà Giáp phải trả cho Ất (kết quả)? Hành động cho vay 5
lạng bạc để Ất lập nghiệp, và sau này, với hảo ý đem 5 lạng nữa để tiếp tục
giúp Ất vẫn chưa đủ để trả món nợ nặng nề kiếp trước. Giáp phải mang cái chết
mới trả được sòng phẳng cho gia đình
bạn? Nhưng sau khi trả xong thì cũng lại đến lượt vợ chồng Ất phải trả giá bởi
sự vô ơn, phản bội và tội ác của mình gây ra với người bạn cũ - ân nhân (Giáp).
Cứ luẩn quẩn như vậy! Giết người phải đền mạng là lý đương nhiên! Vợ chồng Ất
sẽ và phải bị trừng trị đích đáng để rồi 2 linh hồn tội lỗi, lầm lạc ấy sẽ lại
tiếp tục bị hóa thân hoặc đầu thai vào những kiếp nào để trở lại sống trên
dương thế đầy đa đoan, phức tạp mà cám dỗ, mê hoặc?
Triết lý Phật giáo trong truyện cổ tích
này vừa duy tâm vừa duy vật mà phần duy
tâm nặng nề hơn có phần át đi tính
duy vật le lói và yếu ớt. Con người được quan niệm như một thực thể, với một
linh hồn, dù vùng quẫy, nỗ lực hết tâm sức cũng không sao làm chủ được số phận
và cuộc đời mình mà luôn phụ thuộc vào định
mệnh của Trời – Phật, những đấng siêu nhiên tối cao xếp đặt, an bài từ
trước. Dù thấu thị hay mù mờ chân lý ấy, nhưng con người vẫn và luôn sống và
suy nghĩ, hành động, theo tính cách, quan niệm của mỗi cá thể cá nhân người,
dẫn tới những kết quả, hậu quả khác nhau mà họ được thụ hưởng hay gánh chịu.
Triết
lý vừa tiêu cực vừa tích cực ấy hòa lẫn với những triết lý dân gian lành
mạnh đã tạo nên sức sống khỏe khoắn, vạm vỡ, ý nghĩa đạo đức nhân văn bình dị,
trong sáng của con người Việt Nam
thời cổ - trung đại. Vậy, những triết lý dân gian ấy là gì và được thể hiện như
thế nào trong truyện cổ tích này?
Trong đời sống thực tiễn, hiện tượng, vấn đề tái sinh – đầu thai,
nhìn nhận và lý giải từ góc độ khoa học
thực chứng, cho đến nay, vẫn là vấn đề phức tạp, nan giải, và chắc còn rất
lâu có kết luận cuối cùng. Theo 1 tin gần đây trên mạng internet, hiện tượng 1 đứa bé ở vùng biên giới Xyri (Tây Á), tố cáo
với nhà chức trách tội ác của kẻ đã giết mình ở kiếp trước. Cảnh sát lần theo
dấu vết và chứng cứ mà đứa bé đã nói. Quả nhiên phát hiện ra kẻ thủ ác. Và y đã
phải cúi đầu nhận tội… Độ tin cậy của tin trên mạng đến mức nào, vẫn chưa được kiểm chứng. Nhưng từ đó, chỉ càng
khẳng định rằng hiện tượng đầu thai, vấn đề tái sinh - luân hồi của con người
hiện đại vẫn đang và sẽ làm đau đầu các nhà khoa học để tìm lời giải đáp. Như
vậy, phải chăng câu chuyện đầu thai – tái
sinh của Giáp đâu phải chỉ đơn thuần là một giấc mơ khắc khoải và niềm tin
tôn giáo diết da cuả con người?!
4.
Thấm đượm những triết lý dân gian Việt:
Đó
là những triết lý bình dân quen thuộc thường gặp trong các truyện cổ tích Việt Nam. Chẳng hạn:
Ở
hiền gặp lành, ác giả ác báo, gieo gió gặt bão, Cứu vật, vật trả ân, Cứu nhân,
nhân trả oán; Tự mình đấu tranh giành công lý, tự giải oan;… Hướng tương lai
(Con hơn cha – nhà có phúc)…
Những triết lý ấy thể hiện quan niệm nhân
sinh và khái quát đời sống từ kinh nghiệm bản thân người bình dân Việt. Giáp sống
thiện, chịu oan ức, phải đánh đổi cả tính mạng, nhưng cuối cùng cũng gặp lành,
trả được thù, lấy lại được công bằng, gặp lại gia đình, lại làm chồng, làm cha,
làm ông… trong hình hài một thiếu nhi 8 tuổi. Qua nhân vật Giáp, phải chăng triết lý dân
gian còn có ý khuyên người ta hãy gắng tích
thiện, thiện nguyện suốt đời trước sau cũng sẽ được thiện báo, chẳng chóng thì chầy, không kiếp này thì kiếp sau! Và làm ơn há dễ mong người trả ơn (Nguyễn Đình Chiểu).Thật lý thú những cũng buồn cười và kỳ lạ cho cái tính
ưa hài hước, tưởng tượng dí dỏm của người Việt.
Vợ
chồng Ất không những không biết trả ơn người bạn cũ hết lòng với bạn, mà
còn vô ơn, vô lương, ky bo, quỵt nợ, giết người diệt khẩu một cách độc ác, đê
hèn… Chúng những tưởng giấu nhẹm được tung tích, nuốt trôi vĩnh viễn 5 lạng bạc
của bạn, càng tưởng gặp vận hên khi trời còn ban cho đứa con trai nối dõi tông
đường!... Có ngờ đâu ác giả ác báo, gieo gió gặt bão, lưới trời lồng lộng, thưa
mà khó lọt! mình làm mình chịu,… cả hai lại bị ngay đứa con đẻ (kiếp sau của
Giáp) tố cáo trọng tội với quan huyện và bị pháp luật trừng trị đích đáng. Cách
ứng xử và hành vi của vợ chồng Ất với Giáp cho thấy lòng tham của con người là
không giới hạn. Từ lòng tham dẫn đến phạm tội ác, trở thành tội nhân giết
người, giết bạn chỉ vì vài lạng bạc chỉ có 1 lằn ranh rất đỗi mong manh!
Theo dõi quá trình từ bị giết, đầu thai,
lớn lên, tìm cách giải oan, vạch mặt kẻ thù, thấy Giáp không chỉ là một nạn nhân một bề cam chịu, thúc thủ mà quả là
một con người kiên nhẫn và nghị lực, kiên quyết và khôn khéo, tự lực tìm cách
thông minh, bất ngờ, chọn đúng thời điểm để hành động phanh phui sự thật, đòi
lại công lý, công bằng cho bản thân mình.
Xong xuôi mọi chuyện, thương con, nhớ
cháu, nhớ ngôi nhà xưa, Giáp lại tìm về quê mình, nhà mình, sống hạnh phúc với
gia đình trong hình hài một đứa trẻ ít tuổi hơn cả thằng cháu nội, trong mối quan
hệ vừa là ông - cháu, vừa là bạn bè cùng trang lứa! Có phải tinh thần yêu quý
trẻ thơ, triết lý hướng tương lai đang cất lên tiếng cười lạc quan giòn giã nơi
đoạn kết truyện cố tích độc đáo này?
***
Từ câu tục ngữ Sinh con rồi mới sinh cha… đến truyện cổ tích Giáp - Ất, người bình dân Việt Nam, từ ngàn xưa, đã đặt ra và gửi
gắm bao vấn đề triết lý nhân sinh sâu sắc, thú vị, được thể hiện bằng những
hình thức nghệ thuật dân gian cổ truyền quen thuộc mà mới lạ, chứng tỏ tâm hồn
nhân hậu, trí tuệ linh mẫn, tinh thần lạc quan vui tươi của người Việt trong
đời sống sinh hoạt, lao động và đấu tranh. Câu tục ngữ và truyện cổ dân gian
giàu ý nghĩa ấy chắc chắn sẽ còn sống rất lâu trong tâm thức văn hóa của các
thế hệ con người Việt Nam./.
Trèm, ngày Khai giảng năm học mới:
5 – 9 – 2015. ĐV
ĐỌC NGƯỜI CON GÁI NAM
XƯƠNG*
ĐƯỜNG VĂN
1
Vũ Nương chỉ có “tội”:
Quá yêu chồng, thương con!
Thủy chung cho đến thác!
Rạng ngời tấm trinh son!
2
Bóng mình, lại bảo bóng
cha!*
Đến chết chẳng hiểu lỗi là tại đâu?!
Nếu chàng Trương hé một câu,
Nên chi mua oán chuốc sầu Hoàng Giang*!
3
Thế gian đa sự chỉ có chỗ cho chàng,
Chẳng có chỗ cho nàng!
Vũ thị không thể nào không tuẫn tiết!
Cho gã ghen, hèn
sống chết … khác gì nhau?!
* Chuyện
người con gái Nam
Xương: nguyên văn chữ Hán của Nguyễn
Dữ (viết lại theo truyện cổ tích Chuyện
chàng Trương), trong tập Truyền kỳ
mạn lục. (SGK Ngữ văn lớp 9, tập 1). Nhân vật chính trong truyện: Vợ: Vũ
Thị Thiết- Người con gái Nam Xương; chồng: Trương Sinh; con trai: bé Đản (3
tuổi); * Trong thời gian Trương Sinh đi lính xa nhà, mỗi buổi tối, bên ngọn đèn
dầu, Vũ thị thường chỉ cái bóng mình in trên vách tường mà bảo đứa con trai (bé
Đản mới lên 3 tuổi) rằng: Đó là cha của nó! * Bến sông Hoàng Giang (một đoạn
sông Hồng chảy qua tỉnh Hưng Yên.
Đêm 5 – 9 – 2015. ĐV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét