Thứ Tư, 30 tháng 3, 2016

PHƯƠNG THẢO VỚI “NỖI BUỒN CỦA EM”





                  Tác giả Nguyễn Thị Lan

PHƯƠNG THẢO VỚI “NỖI BUỒN CỦA EM”

(Đọc tập thơ “Nỗi buồn của em” Phương Thảo –

NXB Thanh Niên 1997)

Nguyễn Thị Lan


Người con của dòng sông Lam năm 1997 cho xuất bản tập thơ của mình. Ba mươi lăm bài thơ xinh xắn như ba mươi lăm bản nhạc nhẹ “kể” cho chúng ta những giai điệu của tâm hồn anh.

Có thể dễ dàng nhận thấy Phương Thảo là một người đa cảm, yêu thơ. Bất cứ một sự vật, một hiện tượng nào trong cuộc sống cũng có thể đi vào thơ anh: một cánh hoa rụng, một vầng trăng, một ngọn lửa, một ngọn gió mát, một cơn bão, một vài quả sót bên cành… Rồi những cảm xúc, nỗi niềm: thương mình, thương người, thương vợ, thương con, nhớ quê… Tâm hồn người thi sĩ - nhà giáo đó như những sợi dây đàn căng lúc nào cũng sẵn sàng rung lên những âm thanh náo nức của cuộc đời.

Đã là thi nhân ai mà không yêu cái Đẹp, ai mà không xót xa khi cái Đẹp bị lụi tàn? Hoa là hiện thân của cái Đẹp - cái Đẹp thanh khiết mà tạo hóa đã ban tặng cho thế gian. Biết bao thi nhân xưa nay đã từng thổn thức trước cảnh hoa tàn. Phương Thảo cũng vậy. Trong bài thơ “Hoa thác oan” ta gặp một tâm hồn nghệ sĩ xót xa trước cái Đẹp bị bỏ quên, tàn úa:

“Đêm qua mưa gió đầy trời

Mấy bông Quỳnh nở không người đến xem

Sáng ra rũ cánh bên thềm

Nghĩ mà thương cánh hoa mềm thác oan”


Đi qua ga Lăng Cô (một cái ga xép ở chân đèo Hải Vân) lúc nửa đêm, anh cũng kịp để lại lòng mình, thơ mình:

“Nửa đêm tầu đến Lăng Cô

Tên ga mà cứ tựa hồ tên ai

Vũng Rô lấp loáng lửa chài

Con tầu uốn lượn, ru người hành hương”

(Ga Lăng Cô)

Một cái ga xép đứng trong buổi chiều buồn cũng làm cho con người đa cảm đó nghĩ về em - anh:

“Anh như con tầu tốc hành

Lòng em là ga xép

Tầu lướt qua không một lời từ biệt

Ga xép buồn chiều đứng bâng khuâng”

                                                         (Ga xép)

Nhậy cảm trước bước đi của thời gian, anh xao xuyến với vài quả sót trên cành khi mùa quả đi qua:

“Anh đến quê em khi mùa quả đi qua

Nắng thấp thoáng sau vòm xanh lá đậm

Vài quả sót trên cành nhỏ nhắn

Làm niềm vui hai ta”

(Khi mùa quả đi qua)

Từ những quả sót trên cành đó, ý thơ mở ra rộng đến khôn cùng “Quả sót cuối mùa làm ngọt cả mùa sau”.

Một em gái nhỏ đưa thư ngày ngày đi qua ngõ nhà mình, người đời mấy ai để ý, mấy ai cảm thông? Nhưng người em gái đó đã đi vào thơ Phương Thảo thật đẹp:

“Em đi trong nắng lửa

Em đi trong bão giông”

(…) “Em như con chim nhỏ

Bay quanh trong đường chiều”

Phong thư em mang đến cho mọi người “nhỏ nhẹ” nhưng lại “nặng” biết bao vì nó ấm áp tình người:

“Đón phong thư nhỏ nhẹ

Mà tình em ấm nồng”

                         (Người đưa thư)

Ẩn trong những vần thơ đó là lòng biết ơn của một con người giàu tình nghĩa, biết ơn người đã mang niềm vui đến cho mình.

Người thầy giáo trường làng đó gắn bó máu thịt với người dân quê lam lũ. Hồn thơ Phương Thảo dễ rung động với con người, cảnh vật thôn quê. Anh vui khi người nông dân được mùa:

“Tôi viết bài thơ về mùa gặt hái

Như bao lần tôi viết những mùa vui”

                                                                  (Ngày mùa)

Có thể nói bài thơ “Ngày mùa” như một tấm ảnh ghi lại chân thật những nét khá tiêu biểu của nông dân Việt Nam ta trong những ngày mùa. Cảnh miêu tả sinh động vì có những chi tiết điển hình:

“Bên gốc mít cây rơm cao như tháp

Dưới chân ríu rít đàn gà

Ngồi bên cửa, bà nheo nheo mắt

Sân thóc vàng, vàng lóa mắt bà hoa”

Không gắn bó với làng quê, với người nông dân một nắng hai sương không thể có những vần thơ như thế.

Trong cuộc sống ở làng quê, biết bao sự vật nhỏ bé tưởng như tầm thường nhưng cũng đi vào thơ Phương Thảo một cách đầy thân thương, trìu mến. Một chiếc quạt mo nhỏ bé nhưng ở trong thơ anh nó gợi ra cả một vòm đầy hương thơm:

“Cái quạt mo giản dị

Như áo mẹ bạc màu

Theo tay bà nhè nhẹ

Nở một vòm hương cau”

Trong “vòm hương cau” đó bé ngủ say giấc nồng. Vòm hương cau đó “nói tình yêu lòng bà”. Và mai ngày cháu khôn lớn, dù cháu có cuộc sống đầy đủ tiện nghi thì chiếc quạt mo vẫn là một chứng tích tâm hồn:

“Cái quạt mo nhắc mãi

Tấm lòng bà mênh mông”

Thơ Phương Thảo thường thế: chỉ một sự vật, một hiện tượng nhỏ cũng đủ gợi cho anh những suy tưởng và đẹp hơn cả là những suy nghĩ về tình người.

Trong hồn thơ của mình, Phương Thảo dành một vị trí đặc biệt cho vợ con, những người thân thiết nhất của đời anh. Với người bạn đời - người vợ tao khang, lời thơ của anh xiết bao thương mến. Thương vợ vất vả, có lúc nhà thơ day dứt tự bảo mình:

“Anh đi qua đời thường một cách quá vô tư

Bưng bát cơm ăn không mùa gieo cấy

Đâu nắng hạn, đâu sâu keo, đâu ngang trời nước chảy

Một bát canh cua đồng, nắng cháy lưng em”

                                                                        (Vị đời thường)

Lời thơ chân thành, thấm thía khiến người đọc thấy rưng rưng xúc động.

Mùa thu năm 1980, Phương Thảo “lên ngôi”… bố vợ. Ngày cưới của con mưa tầm tã. Thế là “Ngày vui hóa nên buồn”. Thương con, anh làm những vần thơ buồn não ruột:

“Biết làm sao con hỡi

Thói đời thường vẫn vậy

Điều ta mong ít về

Điều ta lo thường thấy”

Thời gian trôi qua nhưng nỗi niềm thương con vẫn còn vương mãi trong anh:

“Ngày ấy đã qua đi

Nỗi buồn còn vương mãi

Mỗi lần con về chơi

Lại thương thầm con gái”

                       (Con cưới ngày mưa)

Thơ Phương Thảo là nhật ký tâm sự của anh. Trong thơ anh ta thấy “cái tôi trữ tình” của một nhà giáo nghèo “Cái nghèo” là một tứ thơ thường đi về nhiều trong thơ anh.

Nghèo nên không có tiền về thăm quê mặc dù da diết nhớ quê:

“Năm nay hè lại đến

Bố ơi có về quê?

Bố nhìn con chua xót

Lấy tiền đâu mà về”

                          (Về quê)

Nghèo nên mới phải sống trong những tình cảm mâu thuẫn:

“Con không về thì nhớ

Con về thì mẹ lo

Nhà chạy ăn từng bữa

Lấy đâu tiền mà cho”

                     (Mỗi lượt con về)

Nghèo nên lòng người ngổn ngang trăm mối. Ngồi tính tìm cách giúp vợ con nhưng rồi thấy mình bất tài, bất lực. Tìm đến văn chương như tìm đến một sự giải khuây, một niềm an ủi nhưng cũng chẳng vơi đi nỗi buồn:

“Mải mê tìm đến văn chương

Ngỡ là vui lại thêm buồn hơn xưa”

                                             (Trăm phương)

Là một người tha hương, hơn ba mươi năm trời xa quê Phương Thảo bao giờ cũng da diết nhớ quê. Tình yêu quê hương thấm đẫm trong nhiều sáng tác của anh: “Nhớ quê”, “Về quê”, “Bão miền Trung”, “Thăm làng”, “Gặp lại tuổi thơ”. Tình yêu đó trở đi, trở lại như một ám ảnh không nguôi.

Anh yêu quê vì nơi đây có tuổi thơ của anh:

“Ôi - Bao nhiêu - Một thuở

Vô tư đến dại khờ

Đến bây giờ tóc bạc

Lại thích ngày bé thơ”

                                              (Gặp lại tuổi thơ)

Anh yêu quê vì:

“Tiếng quê nhà như chim hót liu ô

Giọng trọ trẹ đến trăm miền chả lẫn

Răng - rứa - mô - tê gừng cay muốn mặn”

                                                           (Nhớ quê)

Yêu quê đến mức nhìn trăng nơi đây anh cũng thấy khác với trăng quê.

Và:

“…Cái rét của gió mùa Đông Bắc

Tôi nôn nao thêm một chút gió Lào”

Quê hương anh nghèo, cơ cực lắm:

“Người quê tôi tháng ngày lam lũ

Vất vả nhiều lèn đá hóa hai vai”

Nhưng Phương Thảo yêu chính cái vùng quê nghèo cơ cực đó chứ không phải một miền quê nào khác.

Viết nhiều về quê hương mình nhưng những vần thơ hay nhất của Phương Thảo không phải là những vần thơ viết về mình mà là những vần thơ viết về người: những người chị, người em chịu nhiều mất mát, đau khổ sau chiến tranh.

Anh thương cô thanh niên xung phong năm xưa:

“Bốn mươi tuổi em chưa chồng

Hẩm hiu như một đóa hồng bỏ quên”

Anh cảm thông cảnh lẻ loi, đơn chiếc và nỗi mong chờ hạnh phúc đến mòn mỏi:

“Xoong cơm nấu ít vẫn thừa

Không người yêu vẫn hay chờ, hay mong”

Anh tê tái xót thương khi người con gái kia tóc chuyển màu theo năm tháng:

“Gối nghiêng lệch nửa mái đầu

Nghe từng sợi tóc chuyển màu gió sương”

Anh đau với nỗi đau của người con gái cô quạnh:

“Trở mình đau cả lạch giường

Tay gày ấp ngực, mình thương lấy mình…”

                                                (Nỗi buồn của em)

Đất nước mình suốt từ Nam ra Bắc đi đâu cũng gặp những hòn Vọng Phu. Hình ảnh những người vợ bồng con ngóng chồng hóa đã đó đã đi vào thơ ca của biết bao thi sĩ. Đó là biểu tượng về những đau khổ, mất mát, hy sinh của người phụ nữ Việt Nam.

Nhưng người con gái trong thơ Phương Thảo còn đau khổ hơn những nàng Vọng Phu bởi vì cô không có người để mà mong, mà đợi:

“Đâu dám một lần mong

Được là đá vọng phu còn hạnh phúc

Đứng uy nghiêm - trầm mặc chờ chồng”

                                                         (Vô đề)

Cảm thông sâu sắc với những đau khổ của người phụ nữ thời hậu chiến đó là một tình cảm mang đậm chất nhân văn của hồn thơ Phương Thảo. Tình cảm nhân văn đó cũng là yếu tố cơ bản tạo nên giá trị của tập thơ.

“Nỗi buồn của em” nhìn chung là một tập thơ khá.

Thơ Phương Thảo mộc mạc, chân chất đó là sở trường và cũng là sở đoản của anh. Từ ngữ trong thơ anh giản dị, không nổi bật. Nàng thơ của Phương Thảo như một cô gái thôn quê có vẻ đẹp dung dị. Có thể thấy tập thơ còn vắng những câu thơ tài hoa, còn thiếu vẻ đẹp lấp lánh của hình tượng.

Về sự hàm súc của thơ có người nói: “Thơ là một sự dồn nén năng lượng”, “Nỗi buồn của em” có đôi bài còn rậm lời, có những câu thơ còn dễ dãi. Có những bài nếu nhà thơ cắt bỏ một số câu, một vài khổ thì có lẽ bài thơ sẽ được chắt lọc, cô đúc hơn nhiều.

Tôi chưa một lần được gặp nhà thơ. Đọc thơ của người con xứ Nghệ mỗi người đều có thể tìm thấy những nét đẹp trong tâm hồn anh mà ấn tượng rõ nhất là được gặp một con người có tâm hồn đa cảm, giàu nhân ái.

Hải Dương, đầu Xuân 2002

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét