"Văn chương Nghệ thuật và thẩm mỹ
tiếp nhận" - tập Tiểu
luận - Phê bình VHNT mới của Nguyễn Ngọc Thiện
Nguyễn Tự Lập
Hội VHNT tỉnh Bắc Ninh
Tác giả ( bìa trái) và PGS TS Nguyễn Ngọc Thiện |
|
Văn chương nghệ thuật & thẩm mỹ tiếp nhận là đứa con tinh thần thứ 6 về lý luận - phê bình
văn học ([1])
mà PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện, Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam vừa cho ra đời. Vậy là sau 40 năm gắn
bó với nghiệp văn chương, hơn 20 năm tác phẩm đầu tiên xuất hiện trước công
chúng, ông đã có những đóng góp đáng kể cho nền VHNT nước nhà. Ngoài 6 tác
phẩm in riêng với hàng nghìn trang, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện đã chủ biên và
xuất bản 25 đầu sách với số lượng đồ
sộ hàng vạn trang, phục vụ kịp thời yêu cầu bạn đọc và công tác nghiên cứu.
Từ những con số nêu trên cũng đủ cho thấy niềm đam mê, trách nhiệm với nghề
nghiệp - sự nghiệp VHNT của ông đến nhường nào... Thật đáng trân trọng!
|
Tác phẩm Văn chương nghệ thuật & thẩm mỹ tiếp
nhận có độ dày 424 trang (khổ sách 14,5 x 20,5 cm) do Nhà xuất bản Hội
Nhà văn phát hành cuối năm 2015, được cấu trúc gồm ba phần. Phần I: Tiểu luận, phê bình văn chương nghệ thuật
Việt Nam
hiện đại; Phần II: Ma Văn Kháng - Đời
văn và tác phẩm; Phần III: Về báo chí
văn nghệ. Đây là tác phẩm tổng hợp về lý luận - phê bình văn học, với nội
dung phong phú, đa dạng, tiếp cận ở nhiều góc độ: Nhà văn, nhà nghiên cứu lý
luận - phê bình, người quản lý, nhà báo... với không gian rộng, ở những giai
đoạn, thời kỳ phát triển của VHNT Việt Nam khác nhau từ đầu thế kỷ XX đến
nay... Nên tác phẩm không những giúp người đọc có thêm kiến thức về nghiệp vụ
mà còn tự nhìn nhận, đánh giá về quá trình hoạt động VHNT của cả nước nói
chung, của từng cá nhân nói riêng, từ đó rút ra những bài học thực tiễn đối với
công việc ngày một tốt hơn. Do vậy, tác phẩm hết sức thiết thực, bổ ích, mang tính
phổ cập cao trong giới chuyên môn,
nghiệp vụ.
1. Phần một, bao gồm 17 bài tiểu luận -
phê bình xoay quanh các chủ đề thực trạng lý luận - phê bình văn học, nghệ
thuật Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến nay; về các tác gia, tác phẩm văn
chương Việt Nam hiện đại nhìn dưới góc độ của sự đọc chuyên nghiệp và thẩm mỹ
tiếp nhận. Mở đầu là Đề cương về văn hóa Việt
Nam
và vấn đề dân tộc hóa tiếng nói và chữ viết. Theo tác giả: Ngôn ngữ dân tộc
thể hiện qua tiếng nói và chữ viết của dân tộc ấy, là thước đo minh chứng về sự
tồn tại và bền vững của dân tộc, quốc gia. Điều này cũng hoàn toàn dựa trên
quan điểm nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như các đồng chí lãnh đạo
khác của Đảng và Nhà nước như Trường Chinh, Phạm văn Đồng... Ngay sau ngày Cách
mạng tháng 8 thành công, trong những ngày kháng chiến chống Pháp ở chiến khu
Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiêm khắc phê bình thói ba hoa của cán bộ
trong khi nói và viết, bệnh sính dùng chữ nước ngoài, bệnh nói và viết dài dòng
văn tự. Sau này cũng như cho đến hiện nay, trong bối cảnh đổi mới và cơ chế thị
trường chi phối, chúng ta có phần chưa
chú ý đúng mức, xem nhẹ việc giữ gìn và phát triển văn hóa dân tộc. Bởi vậy,
tình trạng viết ẩu, nói ẩu, viết tắt đến mức không ai hiểu được, viết và nói
lệch chuẩn chính tả, ngữ pháp, từ vựng, ngữ âm... lại tái phát, nhất là trong
giới trẻ, ngay cả học đường... Chính từ thực tiễn đó, Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 5 khóa VIII về "Tiếp tục xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc"
bằng những chương trình, nội dung hành động cụ thể, trong đó có nội dung xác
định cần chăm lo giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tiềm ẩn trong ngôn
ngữ tiếng Việt, làm cho tiếng Việt trong sáng, giàu và đẹp hơn nữa, luôn dồi
dào sức sống, trường tồn cùng lịch sử dân tộc là hoàn toàn cấp thiết.
Trên cơ sở nhìn nhận Đề cương về văn hóa Việt Nam và vấn đề dân tộc hóa tiếng nói và chữ
viết như chìa khóa mở đầu cho sự nghiệp hoạt động văn hóa, văn nghệ nước
nhà, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện tiếp tục làm rõ Chiến lược phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng và chăm sóc tài năng văn học
nghệ thuật phát triển, làm rạng danh đất nước. Trong Dự thảo Cương lĩnh,
Báo cáo Chính trị, Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội trình Đại hội Đảng
lần thứ XI đã đề cập đến yêu cầu cấp bách "nâng cao chất lượng sáng tạo
VHNT" phấn đấu vươn tới "nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và
nghệ thuật", "có sức lan tỏa lớn, xứng đáng với tầm vóc của dân
tộc...". Đó là những định hướng
đúng đắn và xác thực. Song để thực hiện được chiến lược trên cần phải có một
đội ngũ văn nghệ sĩ giàu tài năng, trong đó đột khởi những văn nghệ sĩ xuất
chúng, có tầm cỡ khu vực và thế giới. Được sự quan tâm, chăm lo phát hiện, giáo
dục và bồi dưỡng của Chủ tịch nước, đến đồng chí Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng,
đội ngũ văn nghệ sĩ cách mạng thế kỷ XX đã có một "thế hệ vàng" nghệ
sĩ thuộc các loại hình VHNT. Họ đã có những tác phẩm để đời, kết tinh của tài
năng siêu việt và công phu lao động đáng nể, thể hiện tâm huyết nghề nghiệp
đáng khâm phục.
Đi sâu về đánh giá Thực
trạng phê bình văn học, nghệ thuật hiện nay, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện nêu
rõ: Được sự quan tâm chỉ đạo từ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và sự phát huy vai trò
của tổ chức Hội VHNT ở Trung ương, các tỉnh, thành phố, hoạt động phê bình VHNT
được diễn ra sâu rộng trên các khu vực: Từ trong nước ra đến ngoài nước; từ
Trung ương xuống các địa phương... Các khuynh hướng phê bình VHNT ở tất cả 10 chuyên ngành: Văn học, Mỹ
thuật, Sân khấu, Điện ảnh, Nhiếp ảnh, Âm nhạc, Múa, Kiến trúc, Văn nghệ dân
gian, Văn nghệ các dân tộc thiểu số, đã được PGS. TS Nguyễn Ngọc Thiện đánh giá
rất sâu sắc, cụ thể. Ngoài việc khẳng
định những tác giả đã đem tài năng và tâm huyết vào sáng tạo tác phẩm phục vụ
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao đời sống tinh thần lành mạnh của
xã hội... công tác phê bình VHNT cũng chú trọng phê phán những tác phẩm xa rời
hiện thực quần chúng, lệch lạc về tư tưởng chính trị và tư tưởng nghệ thuật, có
hại cho sự ổn định xã hội, sự cố kết nhân tâm trong bối cảnh quốc tế phức tạp.
Từ thực tiễn trên, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện đã đưa ra kết luận và kiến nghị các
giải pháp hết sức cụ thể, thiết thực. Trong đó nhấn mạnh, phê bình VHNT cần có
kiến văn phong phú, uyên bác. Họ cần được đào tạo chu đáo, có tài năng và phẩm
chất của chuyên ngành. Đồng thời họ cần có một năng lực diễn đạt bằng năng lực
viết, nói... có sức hấp dẫn, có tính văn học, có khả năng lôi cuốn người đọc.
"Nói cách khác, họ cần phải là nhà văn cầm bút viết phê bình về VHNT"
(tr.164).
Trong phần I của tác phẩm, tác giả còn giới thiệu với
bạn đọc chân dung của một số nhà văn, nhà lý luận, phê bình văn học Mác xít,
hàn lâm, những người thầy uyên bác ở Việt nam về phê bình VHNT giai đoạn đầu và
giữa thế kỷ XX như: Nguyên Hồng, Hải Triều, Hoàng Trinh, Hoàng Xuân Nhị, Đinh
Gia Khánh... mà ông rất quý trọng cùng 4 cây bút viết lý luận, phê bình văn học
trẻ hiện nay là: Trần Thị Việt Trung, Cao Hồng, Đỗ Phương Thảo và Lê Thị Bích
Hồng với tràn trề triển vọng. Đặc biệt, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện lên tiếng phê
phán gay gắt, quyết liệt những quan điểm, nhận thức về VHNT sai trái, đi lệch
hướng với quan điểm, tư tưởng VHNT chân chính, cách mạng của Đảng, của Bác Hồ,
trong đó có Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn thuộc chuyên ngành Văn học Việt Nam của Đỗ
Thị Thoan (Nhã Thuyên). Theo quan điểm của tác giả thực chất đây là "một
luận văn sai lạc", thể hiện "một góc nhìn phản văn hóa và phi chính
trị" khi luận văn này nhằm vào đối tượng nghiên cứu thơ của nhóm Mở miệng, mà thực chất là một thứ
"thơ dơ", "thơ rác", "thơ nghĩa địa"...
"nhằm chống đối lại thể chế và trật tự xã hội, bêu riếu những điều cao cả,
thiêng liêng với toàn dân tộc" (tr.100).
2. Phần hai, tập hợp các bài phỏng vấn,
nghiên cứu, phê bình từ trước tới nay về tác giả văn xuôi Ma Văn Kháng qua một
số truyện ngắn, tiểu thuyết, hồi ký, bút ký - tiểu luận của ông. Với một tác
phẩm tiểu luận, phê bình có độ dầy hơn 400 trang mà PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện đã
dành hơn 100 trang giới thiệu về Ma Văn Kháng, mới biết rằng ông tâm huyết với
nhà văn tài hoa người Hà Nội Đinh Trọng Đoàn (bút danh Ma Văn Kháng) đến mức
nào. Như tác giả đánh giá " Ma Văn Kháng - Tác gia văn học lực
lưỡng", "Một cây bút văn xuôi sung sức, một đời văn sáng tạo" có
tên tuổi của văn học Việt Nam hiện đại từ nửa cuối thế kỷ XX đến nay. "Đọc
Ma Văn Kháng ta thấy ông là cây bút gây ấn tượng sâu sắc, bởi mỗi tác phẩm của
ông là những chí thú về tượng trưng, ẩn dụ nghệ thuật, những luận đề quan thiết
đến cuộc sống và con người cõi trần thế, mà nếu thiếu đi, cuộc sống sẽ nghèo
nàn, vô nghĩa, con người sẽ trở nên nhạt nhẽo, tầm thường, thô kệch biết
bao!" (tr.350). Thực tiễn cho thấy, việc mến mộ với Ma Văn Kháng là hoàn
toàn có cơ sở và không hề tô vẽ, mang dụng ý cá nhân. Với hơn 50 năm cầm bút,
trưởng thành từ một nhà giáo, trợ lý - thư ký của Bí thư Tỉnh ủy, nhà báo và
sau này là nhà quản lý trong cơ quan xuất bản... rồi nghỉ hưu, đến nay Ma Văn
Kháng đã thành danh bằng một sự nghiệp văn chương đáng nể: hơn 200 truyện ngắn,
18 tiểu thuyết, 1 hồi ký - tự truyện... gần hàng vạn trang sách. Ma Văn Kháng
đã vinh dự được tặng Giải thưởng Văn học Nhà nước (2001), Giải thưởng Văn học
Đông Nam Á (1998), Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (2012). Và
phần kết luận, Ma Văn Kháng đã được PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện ghi nhận:
"... là một gạch nối, tiếp sau Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam
Cao"... "nhà văn tài danh, thân thiết, được bao người mến mộ, tâm
phục, khẩu phục." (tr.352).
3. Phần ba, Những phát biểu xung quanh
việc nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp và hiệu quả của báo chí văn nghệ
Việt Nam đương đại nói chung, Tạp chí
Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam nói riêng, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện luôn luôn tự
hào " Là diễn đàn chung của văn nghệ sĩ cả nước...", đã "phản
ánh kịp thời các hoạt động chủ yếu của địa phương, của chuyên ngành, tuyên
truyền thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước... góp phần xây đắp
nền tảng tinh thần, đạo đức, nếp sống văn hóa lành mạnh của con người mới, văn
minh, phê phán các biểu hiện sai trái, lệch lạc trong quan điểm nghệ thuật và
sáng tác..." (tr.376). Song, tác giả cũng đề cập một cách thẳng thắn về
nhược điểm lớn nhất của báo chí văn nghệ hiện nay là tính chuyên nghiệp chưa
cao, chưa thật hay, đẹp, hấp dẫn, thuộc loại "con nhà nghèo";
"Tình hình sa sút của báo chí văn nghệ đã đến mức báo động khẩn cấp, không
thể lùi, tụt dốc hơn được nữa; cần phải dừng lại chấn chỉnh, vực xốc báo chí
văn nghệ vươn lên" (tr.392). Những giải pháp cơ bản, tác giả tập trung đề
xuất: Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý có hiệu lực của cơ quan chủ quản đối với
hoạt động báo chí về mọi mặt; coi trọng công tác cán bộ (sắp xếp, điều chuyển
hợp lý vị trí cán bộ chủ chốt và chuyên môn); tăng mức hỗ trợ kinh phí và cơ sở
vật chất hiện đại, bảo đảm cho báo chí tác nghiệp có hiệu quả và chất lượng
cao; chủ động xây dựng đội ngũ cộng tác viên có chất lượng và uy tín; phát động
các cuộc thi sáng tác để thu hút nhiều bài vở hay; mở rộng mạng lưới phát
hành... Đặc biệt, là Tiến sĩ Ngữ văn, được đào tạo bài bản ở nước ngoài và gần
như cả cuộc đời gắn bó với văn chương, lại có 10 năm phụ trách Tổng biên tập
Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam -
một tờ báo văn nghệ lớn, có uy tín của Liên hiệp và cả nước nên ông có vốn từ
vựng phong phú, có phong cách làm việc khoa học, cụ thể, tỷ mỉ, sâu sát. Chính
vì vậy PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện thường mong mỏi báo chí, văn nghệ ở các cấp,
các ngành trong toàn quốc luôn "Hay- đẹp và nhanh" như ý kiến chỉ đạo
của đồng chí Trường Chinh. Trong các cuộc hội thảo hay ngay cả trong những giờ
lên lớp với học viên Lớp lý luận - phê bình VHNT (khóa I và II) do Liên hiệp
các Hội VHNT Việt Nam tổ chức năm 2014 và 2015, ông khen ngợi, động viên kịp
thời các tờ báo, tạp chí của những tỉnh, thành đã thực hiện khá tốt về hình
thức, chất lượng... Song cũng phê bình nhắc nhở một cách nghiêm túc, gay gắt
những tờ báo còn non nớt, tắc trách trong khâu trình bày, kiểm tra soát xét nội
dung...
Mặc dù đã chuẩn bị bước sang tuổi 70, nhưng với PGS.TS
Nguyễn Ngọc Thiện vẫn không một ngày nghỉ ngơi, ông khao khát tiếp tục được
cống hiến cho sự nghiệp VHNT nước nhà. Tác phẩm Văn chương nghệ thuật & thẩm
mỹ tiếp nhận vừa qua đã được Hội đồng Lý luận, Phê bình VHNT Trung ương
trao thưởng năm 2015. Chúng ta hy vọng tiếp tục được đón nhận những đứa con
tinh thần mới của ông với chất lượng ngày càng cao và chúc mừng PGS.TS Nguyễn
Ngọc Thiện có thêm những thành tựu xuất sắc, để đời!
Tháng 3 năm 2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét