THẾ THÁI NHÂN TÌNH
-
QUA THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Đỗ Anh Tuyến
*
Nhà thơ
Đặng Xuân Xuyến gửi tặng tập thơ CƯỠNG XUÂN đã lâu nhưng vì bận nên tôi chưa
viết lời cảm nhận được. Hơn nữa, nhà phê bình Châu Thạch và nhà thơ Nguyễn
Thanh Lâm giới thiệu tập thơ đã khá công tâm, đã đủ ý, đủ lời nên tôi cũng khó
viết thêm.
Bài viết
này, giới thiệu một số bài thơ ở mảng thơ thế thái nhân tình, tức thơ thế sự,
của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến, đã được anh công bố rộng rãi trên các trang mạng
nhưng chưa in thành sách, theo cảm nhận của riêng tôi là hay, lạ và độc đáo.
Xin được chia sẻ cùng quý vị.
1.
Quê nghèo (01) là một trong số những bài thơ hay của Đặng Xuân Xuyến.
Bài thơ là tiếng lòng đớn đau của người con khi phải chính kiến cảnh đói nghèo,
cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao thế hệ ở làng quê, nơi chôn nhau cắt
rốn của mình. Bài thơ chiếm được nhiều cảm tình của người đọc, được nhiều tác
giả viết lời bình nhưng chiếc cổng làng - hình tượng độc đáo trong Quê
nghèo - lại chỉ được bình thoảng qua, trong khi lẽ ra phải dành cho chiếc
cổng làng một lượng câu chữ nhiều hơn thế.
Tôi nghĩ
chiếc cổng làng của Quê nghèo không còn là cổng làng của
riêng làng Đá nữa mà là biểu tượng của thể chế Xã Hội Chủ Nghĩa đã
giam hãm, trói buộc người dân trong đói nghèo, tù túnǵ... Đấy là tiếng
kêu nghẹn uất của nhà thơ về nỗi đau của chế độ đã đè nặng lên cuộc sống cơ
cực, khốn quẫn của người dân. Hình ảnh cái cổng làng “Sừng sững bê tông cốt
thép/ Ngạo nghễ tượng đài/ Ngạo nghễ trần ai” cũng khiến người đọc liên
tưởng tới hiện tượng cả xã hội thi nhau xây dựng các loại tượng đài để đục
khoét ngân khố quốc gia, làm khổ thêm cuộc sống “trăm đắng ngàn cay” của người
dân. Thật đau xót khi biểu tượng chiếc cổng làng - biểu tượng ngàn đời của văn
hóa làng xã Việt Nam đã bị thể chế hóa, để không chỉ “Giam hãm đời người/ Tù
túng giấc mơ.”, mà còn đầy đọa, đẩy cuộc sống người dân xót xa đến mức: “Quê
tôi nghèo/ Nghèo cả giấc mơ.”
2.
Ru Con (02)
là bài thơ Đặng Xuân Xuyến viết tặng
con trai của anh, đã làm run rẩy, xúc động trái tim người đọc bởi tình yêu con
bao la, sự hy sinh cho con vô bờ bến của người cha. Nhà thơ Nguyễn Đăng Hành (021)
khi bình đã bật lên được thần thái của
bài thơ:
“Không
một lời kể lể, không một câu đấu tố “kẻ” được gọi là “người lớn” đã “dạy hư”,
làm khổ đứa con bé bỏng của mình, nhưng đã hiện lên hoạt cảnh đầy kịch tính,
xúc động: “Con níu vào giấc ngủ/ Kiếm nụ cười trong mơ”.
Đọc đến
đây tôi đã khóc, khóc thật sự bởi hình ảnh “con níu vào giấc ngủ” chứ không
phải níu con vào giấc ngủ - “Kiếm nụ cười trong mơ” chứ không phải nở nụ cười
trong mơ. Động từ “níu” và “kiếm” sử dụng thật đắt và sống động,
gây được xúc cảm: Một đứa trẻ ở lứa tuổi rất ngây thơ trong sáng đã sớm hiểu
chuyện, ý thức được thiệt thòi của mình mà “níu vào giấc ngủ” để “kiếm nụ cười
trong mơ”, để tự bù đắp những thua thiệt cho mình. Và người cha, cảm được những
giọt lệ âm thầm của người con, hiểu được những khao khát, thua thiệt của người
con, đã lặng nhìn con ngủ với những xót xa trĩu nặng. Dù không vạch tội cụ thể
“người lớn” nào đã làm khổ con mình nhưng người đọc vẫn nhận diện ra kẻ đó là
ai và cảm nhận được nỗi uất hận trào dâng trong lòng người cha đối với kẻ nhẫn
tâm làm khổ con mình. Đây là khổ thơ mấu chốt. Cấu tứ đặc biệt này tạo dòng
chảy sức sống của bài thơ.
(…) Tiêu
đề bài thơ tuy cũ, cấu tứ thơ lại hiền lành nhưng sự chân thực được cất lên từ
tình yêu thương con vô bờ của người cha đã khiến bài thơ sống động, có sức
truyền cảm, làm run rẩy, xúc động trái tim người đọc. Đấy chính là cái thành
công, cái được của Ru Con!”
3.
Lan man và chuyện thằng bạn (03) viết theo trường phái siêu thực, một phương pháp sáng tác
mà lớp nhà thơ trẻ thường sử dụng khi muốn làm mới thơ, được chua dòng chữ: tặng
nhà thơ Nguyễn Đăng Hành, là bài thơ đã tạo cấu tứ lạ, nét vẽ riêng trong
thơ Đặng Xuân Xuyến.
Khung cảnh bài thơ là nhà “thằng bạn”,
thời gian là cả ngày và đêm, được vẽ bằng gam màu u ám, rờn rợn, nhuốm đầy tử
khí. Bao trùm bài thơ là không khí ngột ngạt, là tâm lý sợ hãi của nhà thơ -
người dân: “Tôi đã từng sợ tiếng thạch sùng / nửa đêm tờ lạch tạch não nùng...”
và “Tôi đã từng sợ ma.”... Phải chăng chính bóng đêm tội ác của chế độ
đã làm nhà thơ - người dân luôn sống trong tâm trạng nơm
nớp âu lo hoảng loạn?
Sự giả
dối, thói tham lam và bản tính độc ác, đểu giả của “thằng bạn”,
ám chỉ tầng lớp quan lại, được bóc trần
nhẹ nhàng, từ từ khi thời gian là ban ngày (khổ thơ I), nhưng khi thời gian
chuyển sang tối đêm (khổ thơ II) thì mặt nạ của “thằng bạn” bị lột trần
trắng phớ, lộ rõ sự đểu giả, ma mãnh, độc ác. Chỉ cần hình ảnh “thằng bạn”
với “những tờ tiền đỏ như rưới máu” cũng đã đủ để vạch trần đó là những
đồng tiền dơ bẩn, tội lỗi, được trấn cướp từ mồ hôi, nước mắt, thậm chí là máu,
là tính mạng của những người dân lương thiện. Có lẽ vì quá hiểu nguồn gốc của
những đồng tiền tội ác đó nên “tôi”, nhà thơ, không hỏi “tiền nhiều
từ đâu”, và “thằng bạn” cũng biết bạn mình quá rõ con người mình nên
tảng lờ, “tránh nhắc từ đâu tiền nhiều”. Và, trong cái “Quánh đêm”
“Rờn rợn” “tối lịm” ấy, khuôn mặt “thằng bạn” sau khi bị
nhà thơ tróc bỏ hết lớp “sơn” đã hiện rõ nét là kẻ giả tạo và độc ác: Khuôn
mặt bạn/ Vời vợi của thánh nhân/ Ma lanh của ác quỷ. Đến đây, chả cần xướng
danh cụ thể, người đọc vẫn chắc chắn sẽ nhận ra chân tướng đích thực “thằng
bạn” của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến là ai, kẻ đấy là người thế nào, và bản
chất “thằng bạn” tệ hại ra sao?...
4.
Khi cảm
nhận về bài thơ Tôi nghe (04), nhà thơ Chử Văn Long viết: “Mừng cho ngòi bút tác
giả bài thơ “Tôi nghe”nếu không vững tay nghề sẽ đem kể hàng loạt những
vụ tham nhũng biến chất như thế, bài thơ sẽ biến thành một “bản trường ca bất
hảo” trường thiên… đọc sẽ nhàm chán bởi bản chất của xã hội, dù tha hóa đến đâu
vẫn còn lại bao điều tốt đẹp, vị tha, cao cả. Và đoạn thơ thứ tư bất ngờ xuất
hiện: (...) Tám câu thơ gợi hình ảnh tương phản với ba đoạn thơ trên về màu sắc
sáng tối làm nên bức tranh toàn cảnh sinh động mà lâu nay mỗi khi nghĩ đến thi
ca người ta có cảm giác nó là thứ nghệ thuật đã tách ra, đứng bên lề cuộc sống
thì nay nó lại nhập cuộc vào vui buồn thao thức lương tri. Tám câu thơ ngắn liệm
trọn số phận con người nghèo khó ở bất cứ nơi nào khi mà cuộc sống chưa có công
bằng bác ái, ở bất cứ nơi nào mà bọn quan tham còn được che đậy bởi những lời
nói ngoài môi “vì Đảng, vì dân”!
Nhưng tôi
có chút không đồng thuận với nhà thơ Chử Văn Long khi đọc những dòng kết luận
của ông về Tôi nghe:
“Bài thơ
không cần đoạn thứ năm: Tôi nghe… / Những mảnh đời khốn khó / Những anh
Vươn sắp trơ lì hãi sợ / Có câu tức nước ắt vỡ bờ / Khi niềm tin rạn vỡ.
Bởi chỉ
bốn đoạn trên nó đã gây được xung lực, nó đã gợi lên cho người đọc, dù vô tâm
đến đâu cũng phải khơi dòng không thể để “tức nước vỡ bờ”. Nhìn lại những trận
đại hồng thủy từng qua, cuối cùng vẫn lại dân đen chìm nổi cùng với đau thương
gánh chịu.”
vì khổ thơ
cuối không chỉ là lời cảnh tỉnh tới chế độ mà còn là khí phách dũng cảm của
người cầm bút trước hiện trạng đau thương của đất nước. Thử hỏi khi mà ngàn vạn
nhà thơ nhà văn, nhất là những nhà văn nhà thơ “Quốc Doanh” đang ỉ ôi than khóc
với những tình anh tình em vô bổ, thậm chí còn đầy độc hại vì tính ru ngủ xã
hội, thì mấy ai đã dũng cảm viết ra những dòng thơ nóng bỏng tình người, sục
sôi tính chiến đấu như thế?.
5.
Bài thơ Lan
man và chuyện đàn cừu (05) cũng viết theo trường phái siêu thực, khước từ sự chú
giải, phân tích theo lối thủ cựu, được chua dòng chữ: tặng nhà thơ Vũ Đình
Ninh, chủ bút trang Văn Đàn Việt.
Bài thơ
gồm 2 khổ. Khổ đầu là phân cảnh, là tâm trạng của những con người thuộc tầng
lớp lao động, thuộc lớp dưới nhưng lại chiếm số đông trong xã hội, vất vả, cơ
cực mà vẫn phải chịu cảnh đói nghèo, lam lũ... Với khát khao, mơ ước tương lai
được tươi sáng, tốt đẹp hơn, “tôi” - nhà thơ, và số đông trong xã hội -
đã không ngừng phấn đấu, không ngừng tin tưởng, để rồi “tôi” phải cay
đắng thốt lên: “Hình như”... Câu “hình như...” nghe chua xót, tắc
nghẹn nơi cuống họng làm tái tê, rức buốt nỗi lòng. Một tứ
thơ “lạ” và mới.
Sang khổ
2, nhà thơ tiếp tục câu chuyện của mình nhưng “lan man” chuyện khác,
chuyện của đàn cừu: Đàn cừu / Ngoài kia... Cấu trúc bài thơ thay đổi.
Cấu trúc đoạn thơ cũng thay đổi: Con đầu đàn vừa bị hóa kiếp / Cả đàn chết
khiếp / Lẩy bẩy / Chen đẩy / Vào chuồng / Ông chủ oang oang / Bà chủ nhẹ nhàng
/ Đàn cừu / Im lặng / Cúi xuống / Nhai... Cách ngắt câu thành nhiều nhịp để
diễn tả sát từng cung bậc tâm trạng: khiếp sợ, cam chịu,... của “đàn cừu”,
tượng trưng cho những kẻ bị trị, cùng với cách sử dụng ngôn ngữ “cũ mới nương
nhau”, đã đẩy bài thơ lên tầm cao.
6.
Bài thơ Văn Thùy “dị nhân”
(06), được 2 nhà
thơ Chử Văn Long (061) và Nguyễn Đăng Hành cảm mến viết lời bình, nhưng tôi
thích bài của nhà thơ Nguyễn Đăng Hành (062) hơn vì ông đọc được cái hồn cốt, cái thần của bài thơ:
“Đọc Văn Thùy “dị nhân” của
Đặng Xuân Xuyến tôi thấy người gai gai, rạo rực, cứ ngỡ bài thơ này là viết về
mình, viết cho mình vì thấy có bóng dáng tôi ở trong đó. Tôi tin, khi đọc Văn
Thùy “dị nhân” sẽ không ít người thơ, nhà thơ có tâm trạng, cảm giác gai
gai, rạo rực giống tôi. Đó chính là thành công của bài thơ, của nhà thơ. Thường
thì những bài thơ đi vào lòng người là tuy viết về một người mà có hình ảnh của
nhiều người, viết cho một người mà như viết cho nhiều người. Đó là thứ thơ có
chất trời, chất đời, chất người. Văn Thùy “dị nhân” là bài thơ như thế.
(…) Bài thơ không hề kể lể, chau chuốt
hay dụng công đắp vẽ mà cứ hồn nhiên, nhịp nhàng, đầy tràn “ứ hự”... Hai câu
“Cả đời/ Đánh đổi” đã dựng lên, đã thắt lại cái triết luận: Tất cả là luân hồi,
nhân quả và vô thường. Sự thành bại là sự đánh đổi của cuộc đời. Chữ “đánh đổi”
đúng là “nhãn tự”, là lò so co giãn của bài thơ, như sợi chỉ xuyên suốt câu từ
bài thơ. Nhà thơ tự hỏi “Được gì?” song lại tự lý giải, bình báo ngay sau
đó:“Dăm ba bài thơ dán tem thơ bụi”. Rồi tiếp: “Thiếu vợ/ Thiếu con/ Đâu phải
Kép Tư Bền/ Sao cứ bắt miệng cười tim héo”. Ôi đau quá! Buồn quá! Tác giả thật
khéo ẩn dụ đặt con “tim héo” bên cạnh “miệng cười”, đọc mà thấy nặng tình nặng
nợ. Khiến người đọc ngậm thở rồi mà phải thượt dài, phải thán phục và công nhận
cái giá của sự say sưa, của sự đánh đổi được mất con chữ thi ca “thơ bụi”. Tôi
đồ rằng, khi viết những câu thơ này, Đặng Xuân Xuyến phải nén lòng lắm để nước
mắt khỏi tràn vào câu chữ, để hình ảnh của Văn Thùy “dị nhân” được sống
động, rất đời: ngông ngạo, tài hoa mà chất nặng đắng cay.”
7.
Trò Đời (07), sáng tác ngày 08 tháng 05 năm 2017, với dòng chua: kính
tặng nhà thơ Nguyễn Khôi, đúng dịp ông Đinh La Thăng bị thu hồi chức Bí thư
Thành Ủy thành phố Hồ Chí Minh, triệu về Hà Nội, chờ ngày sẽ tra tay vào còng
số 8.
Được viết
ở thể thơ tự do, Trò Đời là bài thơ khá ngắn, không tuân thủ theo
niêm luật mà viết thẳng đuột, khoáng đạt, đập thẳng và mạnh vào cái thế thái
nhân tình đốn mạt, cạn tàu ráo máng của giới quan chức, của những kẻ khi đương
chức đương quyền thì tận lực tham ô, sống thủ đoạn, bất nhân bất nghĩa nhưng khi
nghỉ hưu thì lại cố rặn ra những câu trơ trẽn bảo nhau “ráng làm người tử tế”
như để mà chuộc lỗi những năm tháng làm quan hút máu dân đen, sống như phường
cầm thú.
Mượn giọng
bất cần của một ông quan đang bị thất thế để lột trần bộ mặt đểu giả của chốn
quan trường, nhà thơ ngông nghênh chửi đời, chửi bản chất chốn quan trường là “lưu
manh”, “Đếch có chữ tình”, là “truy cùng diệt tận” đối thủ
chính trị cho dù đối thủ ấy đã “Thất thế sa cơ”, đang cố diễn trò “Ráng
“làm người tử tế””...
Câu kết
bài thơ: Ngã ngựa rồi mới thèm một chữ NHÂN, không chỉ là sự trả giá của
gã quan thất thế, đang hoặc sẽ bị đối thủ chính trị “truy cùng diệt tận”
mà còn là lời cảnh tỉnh cho những kẻ đang làm quan, sẽ làm quan hãy sống cho tử
tế, cho ra một con người để có đường lùi, có sự an toàn khi hạ cánh.
Chữ NHÂN
là nhân tâm, là phần NGƯỜI trong 2 chữ CON NGƯỜI thật đáng quý làm sao!
8.
Khi bình
về bài thơ Bạn Quan (08), nhà thơ Chử Văn Long hạ bút:
“Tôi
thật ngưỡng mộ vì nội dung, giọng điệu, câu chữ già dặn, từng trải, vừa tiếp
thu cách nhìn đời, nhìn người của các lớp nhà thơ cha anh mỗi khi bĩ cực, nhưng
hơn hẳn lớp nhà thơ ăn theo xã hội bây giờ, khi vui thì vỗ tay vào, hết lộc thì
thở ra những lời ai oán vụn vặt làm người đời chán đọc thơ vì vậy.
Thơ Đặng Xuân Xuyến cũng mượn hơi men “giả tỉnh giả say” như để có cớ lôi
tuột những mưu mô giả trá của một xã hội đang thịnh hành, đang phân hóa, làm
đảo lộn hết đạo đức, nhân cách, làm người dù chỉ giới hạn bằng những lời bộc
bạch, tâm sự của hai người bạn lâu ngày gặp lại, có nhu cầu phơi trải lòng mình
thật đến nỗi chỉ thiếu cái tát bằng những ngón tay in lên mặt nhau, dù làm quan
có chức tước giàu sang hay là dân ngu ngơ, nghèo túng, khi nhìn lại đời mình
đều nhục, chưa thấy xứng kiếp người, tự mình thấy mình như súc vật, kiếp ngan,
kiếp chó....
Tình bạn
xa lâu ngày gặp lại nhau, người ta thường ôn lại kỷ niệm trong lành một thuở,
rồi mới có nhu cầu hỏi han công việc hiện tại gia cảnh của nhau. Đằng này có
tình bạn ngày xưa của họ chỉ phụ họa thêm cho nỗi ấm ức về những rối ren, bất
công xã hội. Thằng học giỏi không sống thủ đoạn thì làm dân quèn, thiếu cơm
rách áo. Thằng học ngu, biết nịnh nọt cúi luồn vẫn có thể mua được chức tước
lên quan để kiếm bổng lộc bạc vàng, thành ra cuộc gặp gỡ nơi chôn nhau cắt rốn
lại là cái cớ để nổ ra cuộc vạch mặt chỉ tên những bất công xã hội đang ấm ức
nơi lòng mỗi kẻ.
Bài thơ
thành bữa tiệc giữa hai người bạn thết nhau vị ngọt bùi, cay đắng tình thân,
vừa là của riêng, lại vừa dọn mời người đọc nhâm nhi, cụng chén ở những năm
tháng đời người thật ít điều vui, ít tình thân thiện và gần như không còn thứ
tình cảm tri kỉ mà ông cha ta đã ngìn năm trồng cây cho gỗ nên trầm. Giờ rừng
bỗng dưng bị đốn trụi. Tình người rồi sẽ sao đây! Đặng Xuân Xuyến đã gửi tâm sự
lòng mình vào thơ cho vơi ấm ức! Có lẽ chỉ còn thơ có thể an ủi anh chăng!”
9.
Nhớ Mẹ (09) viết theo cách cũ. Hình ảnh về mẹ rất gần gũi, thân thuộc, rất đẹp trong ký ức mọi người: Mẹ gửi
đồng xa tiếng cười / Mẹ mong đơm mùa trĩu hạt / Nhọc nhằn nhuộm lời mẹ hát....
Những hình ảnh tương tự như thế đã được nhiều nhà thơ sử dụng, nhưng những câu
thơ cất lên từ trái tim hiếu thảo của người con, với những hình ảnh sống động,
sâu lắng về Mẹ: Nhớ những chiều nắng tắt / Kẽo kẹt gánh rau mẹ vội về nhà /
Dáng mẹ xiêu xiêu run rẩy chiều tà... và: Cha ở phương xa / Chúng con
còn bé dại / Gánh nặng gia đình trĩu nặng đôi vai... rất của riêng Mẹ của
Đặng Xuân Xuyến mới làm nao lòng người, mới gợi được cảm xúc nơi người đọc, lấy
được cảm xúc của người đọc.
Bài thơ
được đẩy lên cao trào, lấy thêm nước mắt của người đọc khi thẩm tiếp những câu
“tan nát cõi lòng” của người con hiếu thảo: Con muốn hỏi trời cao / Con muốn
cào đất rộng / Đâu là lẽ công bằng / Mẹ một đời nhân hậu thẳng ngay / Sao lắm
cơ cực đắng cay / Lặng thầm qua đời mẹ... Hình ảnh người con trai: Ngửa
mặt nhìn trời tay con nắm chặt / Nước mắt ngược vào tim mặn chát... để chất
vấn trời cao, chất vấn số phận... đã cứa vào tim người đọc. Ở khổ thơ thứ 3
này, nhà thơ lần nữa thể hiện tay nghề vững, thể hiện sự rành rẽ về tâm tư,
tình cảm và những yếu mềm của trái tim... để viết lên những câu thơ rung động
lòng người, dâng lên Mẹ.
Chưa hẳn
là bài thơ tuyệt hay, thật đặc sắc nhưng Nhớ Mẹ của Đặng Xuân
Xuyến là một trong số những bài thơ hay và đẹp về lòng hiếu thảo.
10.
Bài thơ “Về
quê đi mày” (10) cũng là bài thơ hay, chan chứa tình của Đặng Xuân Xuyến
với bè bạn, quê hương. Tôi thật sự ấn tượng khi đọc nhà văn Dương Ninh Ninh (101) cảm Về quê đi mày với những dòng:
““Về
quê đi mày”, thoạt nghe tưởng như đây là tiếng nhà thơ nhắn gọi người bạn
cũ. Nhưng tĩnh lòng lại, ta sẽ nhận ra đó không phải là tiếng gọi thực của nhà
thơ mà là những âm vang của thời thơ dại. Cái thời thơ dại ấy tuy đã qua đi lâu
rồi nhưng nó vẩn còn lưu bóng dáng những kỷ niệm về nó trong tâm hồn mỗi
người. Sau mấy chục năm, bươn trải trong thực tế phũ phàng của cuộc sống, mê
mải trong những toan tính khôn ngoan của người lớn và đứng trước biết bao cơn
bão tinh thần muốn xô đổ những giá trị tình cảm đạo đức, tưởng như những dấu
vết ngây ngô của thời thơ dại ấy đã bị xóa nát. Nhưng không, nó chỉ ngủ yên
trong lòng mỗi người để khi có dịp thì thức dậy. Với nhà thơ Đặng Xuân Xuyến
cũng thế, khi anh nhớ tới người bạn hiền đã biền biệt “hai mấy năm trời”
thì cũng là lúc những kỷ niệm thời thơ dại của đôi bạn bừng thức dậy trong lòng
anh, âm vang thành những tiếng thơ đầy khao khát được gặp lại bạn để cùng nhau
về quê ôn lại thời thơ dại ấy, bởi chỉ có về quê mới có thể tìm lại những dấu
vết ngây ngô khờ khạo nhưng hồn nhiên trong sáng vô tư đã qua đi rồi ấy.
Cái hay
của tiếng gọi “Về quê đi mày” là ở đấy, ở chỗ nó vừa ảo vừa
thật. Và vì thế tôi thích bài thơ này của Đặng Xuân Xuyến.”
&.
Thưa quý
vị!
Vài cảm
nhận về một số bài thơ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến, có gì bất cập, mong nhận
được ở quý vị sự lượng thứ.
*.
Thanh Nê, ngày 10 tháng 01.2018
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu Cộng
Hòa, thị trấn Thanh Nê,
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình
Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn
.
PHỤ CHÚ:
05: https://nguyenduyxuan.net/thu-vien-tac-gia/lan-man-va-chuyen-dan-cuu-tho-dang-xuan-xuyen-1169.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét